Cảnh giác với nguy cơ từ mạng xã hội
Về cơ bản, mạng xã hội giống như một trang web mở với nhiều ứng dụng khác nhau. Mạng xã hội khác với trang web thông thường ở cách truyền tải thông tin và tích hợp ứng dụng. Trang web thông thường cũng giống như truyền hình, cung cấp càng nhiều thông tin, thông tin càng hấp dẫn càng tốt còn mạng xã hội tạo ra các ứng dụng mở, các công cụ tương tác để mọi người tự tương tác và tạo ra dòng tin rồi cùng lan truyền dòng tin đó.
![]() |
| (Ảnh minh hoạ) |
Khái niệm và bản chất mạng xã hội
Theo ông Trương Trí Vĩnh - Giám đốc Dự án VC Corp, cần phân biệt hai khái niệm Social Media (truyền thông xã hội) và Social Network (mạng xã hội). Hãy xét trên hai phần cơ bản của truyền thông: sản xuất nội dung và phân phối nội dung (khác với phát hành). Trong khi mạng xã hội đề cập đến một tập hợp các phần tử (thành viên) và các quan hệ liên kết giữa chúng thì Social Media đề cập tới hình thức sản xuất và phân phối nội dung. Như vậy, ngay cả MySpace hay Facebook, tự thân nó không phải Social Media vì nó không sản xuất mà cũng không phân phối, mà là mạng xã hội, nhưng nó cung cấp môi trường để các blogger sản xuất và phân phối. Social Media không hề phụ thuộc vào Social Network. Ví dụ nếu ai đó lập một trang web cá nhân để đưa các bài viết và quan điểm cá nhân của mình lên, vậy là đã sản xuất nội dung, nhờ Internet phân phối chính là Social Media.
Về mặt bản chất, mạng xã hội chính là hình thức làm marketing truyền miệng trên môi trường Internet. “Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa”, với khả năng lan truyền thông tin nhanh như vận tốc ánh sáng, mạng xã hội có thể trở thành “kẻ hủy diệt” doanh nghiệp một khi những tin tức bất lợi được lan truyền vượt quá khả năng kiểm soát của doanh nghiệp. Vì thế, thâm nhập các mạng xã hội tập trung đông đảo nhóm khách hàng mục tiêu để hiểu rõ hơn nhu cầu của họ, đồng thời hạn chế tối đa các rủi ro cho doanh nghiệp là việc tất yếu mà các marketer nên làm.
Một điều dễ nhận thấy trong các hoạt động trên các mạng xã hội chính là kết nối bạn bè (networking) và giải trí (entertainment). Ở khía cạnh như là một kênh thông tin (news chanel), ảnh hưởng của mạng xã hội ở Việt Nam chưa thật sự nổi trội. Nhìn vào bảng đánh giá top 10 trang web được truy cập nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay của Alexa, dễ thấy gần một nửa (4/10) các trang web là những trang thông tin (news) hay báo điện tử. Điều này phần nào đã chứng minh cho nhận định ở trên. Ở khía cạnh đó, người sử dụng các mạng xã hội ở Việt Nam khá khác biệt so với Mỹ, quê hương của Facebook và MySpace. Trong top 10 trang web được truy cập nhiều nhất ở Mỹ, không hề thấy có một trang báo điện tử hay thông tin nào.
Tuy số lượng người sử dụng các mạng xã hội ở Việt Nam đã đạt những con số khá ấn tượng nhưng con số này so với các nước ASEAN có vẻ còn khá khiêm tốn. Xét ở số lượng người sử dụng Facebook với những thống kê được kiểm định, tại Singapore, trong tổng số gần 3,4 triệu người sử dụng Internet có khoảng hơn 50%, tương đương gần 1,8 triệu người sử dụng mạng xã hội này. Ở Indonesia, 14 triệu trên tổng số gần 30 triệu người dùng Internet là thành viên của Facebook.
Dù số lượng thành viên còn ít hơn một số nước khác, song những phản ứng của các bạn trẻ Việt Nam với Facebook khá tốt, đặc biệt với những chương trình, kế hoạch hành động mang tính cộng đồng cao. Ví dụ như chiến dịch SEAChange YouthSays phát động ở Việt Nam chủ yếu trên Facebook, sau một tháng đã thu hút 15.000 bạn trẻ tham gia trả lời và ủng hộ chiến dịch Người trẻ Đông Nam Á cùng Thay đổi. Một số fanpage của các nhãn hiệu Việt Nam cũng đạt xấp xỉ 10 ngàn fan, báo hiệu cho một tương lai phát triển mạnh mẽ của chiến lược quảng cáo qua các mạng xã hội. Đây quả thực là những con số đáng khích lệ với sự phát triển của cộng đồng mạng xã hội ở Việt Nam.
Nguy cơ ảnh hưởng tự do cá nhân
Song hành với sự phát triển về số lượng người sử dụng, tác động của mạng xã hội đến đời sống xã hội ngày càng rõ nét. Sự tác động ấy bao hàm cả ý nghĩa tích cực và tiêu cực. Trong bài viết Quyền lực ngầm sau mạng xã hội đăng trên báo Nhân Dân, tác giả Anh Khôi nhận xét: “Có thể nói mạng xã hội (MXH) trên in-tơ-nét là một bước tiến mới của công nghệ thông tin, đã và đang thu hút sự quan tâm của hàng tỷ người trên thế giới, đồng thời góp phần quan trọng trong khi đưa con người đến gần với nhau hơn, đưa “thế giới ảo” đến gần với “thế giới thật”. Tuy nhiên, đằng sau mạng xã hội luôn có những quyền lực ngầm, và công nghệ do con người tạo ra có thể trở thành một công cụ bị lạm dụng nhằm khống chế con người, nếu như mất cảnh giác”. Tác giả đặt câu hỏi: Liệu đã có bao nhiêu người đủ tỉnh táo, đủ khả năng sàng lọc thông tin khi tham gia các MXH, bao nhiêu người biết đến tác động của các MXH, nhất là tác động tiêu cực?
Tác giả Anh Khôi phân tích:
“Thông thường, những ai có địa chỉ email thường hay nhận được lời mời hấp dẫn tham gia Facebook, Twitter, hay các trang kết bạn online như twoo.com, badoo.com, nhipcauduyen.com, myzamana.com, vietnamsingle.net... Và thường thì cảm giác về một thế giới cởi mở, hòa đồng với những cơ hội kinh doanh và kết bạn dễ làm mờ đi sự nghi ngại. Còn gì thú vị hơn khi được trò chuyện, trao đổi, hẹn hò, thoải mái bày tỏ quan điểm, ngợi khen hay tặng quà với mọi người có cùng sở thích từ khắp nơi trên thế giới. Có lẽ vì thế, mỗi ngày có hàng tỷ lượt người truy cập vào youtube, wikipedia, google... để tra cứu thông tin, xem video hoặc tương tác với bạn bè. Thành viên MXH thường là người tích cực tải thông tin lên các trang web. Thông tin trên mạng xã hội được gián tiếp thừa nhận khi người khai thác nó nghiên cứu và sử dụng cho mục đích riêng. mạng xã hội đang phát triển như một xu thế thời đại, một phần là do nhu cầu giao lưu, chia sẻ, khai thác thông tin của con người, phần khác do công nghệ kỹ thuật số không ngừng được nâng cấp. Có thể nói, sự liên kết giữa các mạng xã hội và trang web trên toàn cầu có thể biến một sự việc xảy ra tại một làng quê hẻo lánh thành mối quan tâm của cả thế giới”. (Quyền lực ngầm sau mạng xã hội, Báo Nhân Dân ngày 13.09.2012).
Đồng tình với quan điểm trên, tác giả Nguyễn Hải Đăng lại có một góc nhìn khác khi phân tích tính năng, mục đích của mạng Facebook, đó là nguy cơ “ru ngủ”, “gây nghiện” của mạng xã hội được sử dụng phổ biến nhất Việt Nam này:
Dù mang danh nghĩa bảo vệ người dùng mạng xã hội của mình, nhưng xem xét cụ thể thì thấy Facebook đã “vô tình” cổ động cho hành vi không minh bạch của nhiều người sử dụng. Với Facebook, một mạng xã hội đúng nghĩa đã biến mất, nhường chỗ cho hành động ứng xử đời thường. Chỉ khác một điểm, người ta sử dụng trên Internet chứ không phải trong cuộc sống thực. Facebook trở thành nơi người dùng giao thiệp, quảng cáo về mình hơn là giao tiếp, đối thoại. Facebook tạo điều kiện để người dùng kết bạn càng nhiều, càng tốt, vì thế bạn bè theo đúng nghĩa trên Facebook luôn có thể là người xa lạ, người dùng chỉ biết đến thông qua những mối quan hệ rời rạc. Vì thế, nảy sinh tình huống người dùng sẽ gặp, đọc những thứ không cần thiết. Để khắc phục, Facebook đưa ra công thức cho phép người sử dụng Facebook có quyền bỏ qua thông tin họ thấy không cần thiết từ bạn bè mà không lo sẽ bị mất lòng hay ác cảm qua việc chọn lọc danh sách. Sắp tới, Facebook chuẩn bị đưa thêm tính năng “đồng cảm” (sympathy) vì quá nhiều người “thích” (like) các tin đau buồn, bất hạnh được viết trên Facebook. Cách chiều lòng này liệu có hợp lý hay lại là một “chiêu” tiếp theo ru ngủ và gây nghiện với người sử dụng? Bởi hiện tượng đang ngày một phổ biến là người dùng Facebook không đọc kỹ các thông tin hiện lên trên tài khoản của mình; nhất là sau khi Facebook công bố thêm ứng dụng dòng thời gian giúp thông tin chuyển dịch liên tục, người dùng chỉ việc ấn vào thứ mình thích thay vì vào trang cá nhân của mình, của người khác. Họ chỉ nhấn nút thích như một thói quen đối với “người bạn”, ngược lại, có người mắc bệnh nghiện được “like”, được tung hô, bất chấp đó chỉ là hành động xã giao. Không thiếu kẻ viết thông tin, đăng một bức hình để được “like”. (Sự “bùng nổ” của Facebook và một số vấn đề đặt ra, Báo Nhân Dân ngày 06.02.2014).
Tình trạng gây nghiện Facebook đã vượt tầm kiểm soát thông thường, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và chất lượng cũng như kỷ luật lao động. Theo tác giả Nguyễn Hải Đăng thì tuy chưa có thống kê chính xác người Việt Nam dành bao thời gian cho Facebook trong 52 phút truy cập trên mạng và thường ở khung giờ nào, tuy nhiên căn cứ vào các trang web dịch vụ liên kết cũng như các trang quảng cáo trên Facebook, “có thể thấy khoảng thời gian người Việt Nam truy cập Facebook thường từ 9 giờ -10 giờ, 14 giờ -15 giờ, 21 giờ - 22 giờ với việc đăng tải các bức hình, hay thông báo liên quan đến công việc như: họp hành vất vả, sếp khó tính, lao động nghiêm túc... Hai trong khoảng thời gian đó rơi vào giờ hành chính, được lý giải rằng đó là thời điểm nhân viên văn phòng họp hành, giải quyết công việc, và như thế là vi phạm Luật Lao động”. (Sự “bùng nổ” của Facebook và một số vấn đề đặt ra, Báo Nhân Dân ngày 06.02.2014).
Từ tính năng chiều chuộng người sử dụng, Facebook dễ tạo ra tâm lý dễ dãi khi tiếp nhận thông tin. Người ta dễ dàng nhấn nút like (thích) những thông tin vô bổ, thậm chí lá cải kích động trên trang cá nhân ai đó đơn giản chỉ vì lấy lòng, “ngoại giao”. Cũng vì khối lượng thông tin qua đồ sộ, số bạn liên kết đông nên nhiều người không kịp đọc hết nội dung thông tin chuyển tải đã nhanh chóng đưa ra những bình luận thiên kiến và lệch lạc về các sự kiện, các vấn đề của đời sống xã hội mà chưa kịp suy xét, kiểm chứng cho thấu đáo. Những bình luận này lại tiếp tục được lan truyền tạo xúc tác cho những bình luận mới có khi đẩy vấn đề đi rất xa và nguy hại cho nhận thức cá nhân và cộng đồng.
Nguy cơ an ninh quốc gia
Bên cạnh đó, ở mức độ cao hơn, mạng xã hội đã được một số tổ chức, cá nhân chủ động sử dụng vào các mục đích có tính chất chính trị, tập hợp lực lượng hoặc tung ra những thông tin gây hại cho đối phương. Quá trình phát triển của mạng xã hội cũng chứa đựng nhiều thay đổi so với mục đích ban đầu. Những mạng xã hội ra đời đầu tiên vào những năm 1990 chỉ nhằm mục đích kết bạn, tạo diễn đàn trao đổi nội bộ cho các thành viên trong nhóm, không hề hoặc rất ít liên quan chính trị. Tuy nhiên, ảnh hưởng và lực hấp dẫn của các mạng xã hộingày càng lớn và dần dần được các đại gia tài chính, các thế lực chính trị và nhiều đối tượng khác khai thác để kiếm lợi. Đây là nguyên nhân rất căn bản khiến một số mạng xã hội mất đi ý nghĩa ban đầu của nó, chủ động đưa thông tin lệch lạc, thiếu chính xác hoặc cổ vũ cho những tính năng không thật sự hướng về lợi ích cộng đồng, thậm chí xa lạ với nền văn hóa và bản sắc của dân tộc. Tác giả đưa ví dụ về mạng Twitter:
“Khởi điểm là một dịch vụ nhắn tin di động, đến nay, mỗi ngày mạng xã hội Twitter có khoảng 600 triệu lượt người truy cập. Để duy trì hoạt động, mạng xã hội này đã chấp nhận các khoản đầu tư của các công ty như Digital Sky Technologies có trụ sở tại LB Nga và thực hiện các điều khoản cam kết với công ty này”. (Quyền lực ngầm sau mạng xã hội, Báo Nhân Dân ngày 13.09.2012).
Trường hợp Facebook, mạng xã hội được sử dụng phổ biến nhất Việt Nam và toàn cầu hiện nay cũng không phải là ngoại lệ. Từ một trang web kết nối bạn bè do Mark Zuckerberg lập nên, Facebook đã trở thành mạng xã hội đa năng với số thành viên còn đông hơn cả dân số Mỹ, LB Nga. Song ai đang thật sự sở hữu và điều hành mạng xã hộikhổng lồ này? Theo tác giả Anh Khôi thì “Một số nguồn tin cho biết, mạng xã hội nổi tiếng nhất thế giới này được sở hữu và quản lý bởi các ngân hàng và nhà đầu tư tài chính khổng lồ Rothschilds and Goldman Sachs. Mối quan hệ giữa CIA và Facebook được nói rõ trên trang americasnewsnow.com với những thông tin khiến người đọc giật mình. Trang này cho biết, chính các cựu điệp viên CIA là người gây quỹ cho Facebook, và những người này đã được sử dụng thông tin từ Facebook. Các điều khoản dịch vụ Facebook cũng nói rõ rằng, công ty sở hữu trang web này được sở hữu và có quyền sử dụng bất kỳ thông tin nào đăng tải trên trang này theo bất kỳ cách thức nào từ giờ (thời điểm đăng ký) đến vô tận. Khi trả lời câu hỏi: “Có đúng là Facebook thật sự được điều hành bởi CIA?”, trang hỏi đáp có tiếng của yahoo có tên miền là answers.yahoo.com đưa ra câu trả lời rằng, các cơ quan tình báo Mỹ như CIA, FBI hay NSA chỉ việc thu thập thông tin cá nhân có sẵn trên Facebook dùng để chống lại chính những người cung cấp thông tin đó, nếu họ muốn”.
Về mặt kỹ thuật, bất cứ ai muốn tham gia vào một mạng xã hội như Facebook hay Twoo.com, đều phải đăng ký theo yêu cầu của người điều hành trang web. Do đó việc bị xâm phạm đời tư cá nhân một cách “hồn nhiên” hoàn toàn có thể xảy ra. Cái logic tự nhiên đó được phân tích như sau:
“Thông thường, người tham gia phải đăng nhập một tài khoản email, khai họ tên, giới tính, địa chỉ, nghề nghiệp, thậm chí cả điều kiện kinh tế, quan hệ hôn nhân, sở thích cùng nhiều thứ khác. Các thành viên được yêu cầu tải lên hình ảnh của chính mình, càng nhiều ảnh thì càng có cơ hội biết nhiều thông tin của người khác. Từ nguồn thông tin thu thập được và từ email của thành viên, người điều hành trang web sẽ nhanh chóng lần ra mối quan hệ của các thành viên đó trên internet, kêu gọi các thành viên hãy mời bạn bè, người thân tham gia mạng xã hội với những điều kiện ưu đãi tài chính và thông tin hấp dẫn. Càng thuyết phục được nhiều người tham gia, bạn càng có cơ hội được nhiều người biết đến, được xếp vào khách VIP, người nổi tiếng. Cứ thế, như một trò cờ bạc, càng dấn sâu vào các mối quan hệ thân tình trên mạng thì thành viên của mạng xã hội càng khó dứt ra, càng khai báo nhiều hơn. Dần dần, các thành viên mạng xã hội vô tình cung cấp cho người điều hành mạng một bản lý lịch chi tiết mà chính họ cũng không ngờ tới, bao gồm những mối quan hệ cá nhân đáng lẽ phải giấu kín. Khi họ trò chuyện hoặc gửi thư, ảnh và tài liệu cho bạn bè trên mạng xã hội, tất cả những thông tin đó được lưu giữ, và đương nhiên người điều hành mạng xã hội biết hết những thông tin này. Sẽ nguy hiểm thế nào nếu như người điều hành mạng xã hội sử dụng thông tin cá nhân của các thành viên vào mục đích xấu, hoặc để khống chế, hoặc để theo dõi mọi người. Phần lớn những người tham gia mạng xã hội không quan tâm xem ai đứng đằng sau các mạng này, không đọc kỹ các điều khoản tham gia. Khi một người bỏ qua các điều khoản, mặc nhiên người đó đã ký vào một hợp đồng cho phép người điều hành mạng xã hội tự do sử dụng thông tin cá nhân của mình. Cũng rất ít người hoài nghi về mục đích giao lưu vui vẻ của các mạng xã hội, hoặc cho rằng mạng xã hội được lập ra nhằm mục đích kinh doanh thuần túy, mà không xem xét đến các mục đích khác. Sự vô tư này có thể phải trả giá khi tham gia một số mạng xã hội có dụng ý xấu”. (Quyền lực ngầm sau mạng xã hội, Báo Nhân Dân ngày 13.09.2012).
Bên cạnh nguy cơ xâm phạm tự do cá nhân, có những vụ việc và nguy cơ khác cũng hiện hữu trên các mạng xã hội. Đó là nguy cơ lừa đảo về kinh tế, nguy cơ mất an ninh với cá nhân và gia đình các thành viên tham gia mạng xã hội. Đã có những vụ việc kẻ xấu bắt cóc, tống tiền, đột nhập trộm cắp khi biết gia chủ đi vắng thông qua nắm bắt thông tin trên mạng xã hội. Nguy hiểm hơn, có những tổ chức, doanh nghiệp tạo ra mạng xã hội riêng nhằm kết nối các thành viên trong tổ chức với nhau và kết nối có điều kiện với các thành viên bên ngoài nhằm mục đích trục lợi. Vụ lừa đảo bằng thủ đoạn mua bán gian hàng điện tử gây xôn xao dư luận thời gian qua cho thấy, muaban24h đã sử dụng Internet để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của các công dân nhẹ dạ, cả tin. Chưa kể nguy cơ an ninh ở cấp độ quốc gia cũng đã được cảnh báo khi tình báo kinh tế, các hacker thường lợi dụng tối đa các tiện ích của mạng xã hội, vừa khai thác thông tin của đối thủ, vừa tiến công trên cả phương diện tài chính lẫn kỹ thuật. Nhiều hacker phát tán vi-rút và mã độc trên mạng xã hội, tiến công các trang web, blog, thậm chí tiến công cả hệ thống bảo mật thông tin của các quốc gia. Các nhà phân tích đã tính tới các phiên bản của chiến tranh mạng, trong đó, mạng xã hộisẽ đóng vai trò hết sức quan trọng do các trang điện tử này nắm được số đông, khả năng phát tán thông tin nhanh nhạy. Phong trào nổi dậy bạo động Mùa xuân Ả - rập xuất phát từ thông tin trên mạng xã hội là một cảnh báo về nguy cơ mất ổn định chính trị, gây hỗn loạn nếu không được kiểm soát và ngăn chặn kịp thời.
Không thể từ chối hay đóng cửa mạng xã hội, vấn đề là chủ động sử dụng nó một cách hợp lý, bên cạnh việc hoàn thiện các văn bản quản lý cũng như phối hợp trên phạm vi toàn cầu để hướng mạng xã hội vào mục tiêu phục vụ lợi ích chính đáng của cộng đồng, của xã hội. Đây là một nhiệm vụ khó khăn cần sự nỗ lực của nhiều phía, với những giải pháp đồng bộ, trong đó báo chí - loại hình truyền thông đại chúng chính thống có vai trò cực kỳ quan trọng.
--------------
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Hải Đăng: “Sự “bùng nổ” của Facebook và một số vấn đề đặt ra”, Báo Nhân Dân ngày 06.02.2014.
2. Anh Khôi: “Quyền lực ngầm sau mạng xã hội”, Báo Nhân Dân ngày 13.09.2012.
3. Nguyễn Thế Kỷ: “Báo điện tử, trang tin điện tử và mạng xã hội: Định hướng phát triển và quản lý”, Tạp chí Cộng sản, số 12, 2011.
4. Đỗ Chí Nghĩa: Mối quan hệ giữa báo chí và mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay, đề tài cấp cơ sở trọng điểm, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 2013.
4. Doãn Thị Thuận: “Thực trạng phát triển báo điện tử, mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay”, tạp chí Tuyên giáo số tháng 9 năm 2012.
TS Đỗ Chí Nghĩa
(Theo Hội Nhà báo Việt Nam)

