Góp ý bổ sung Dự thảo về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCS Đảng
Góp ý bổ sung Dự thảo Chương trình làm việc của BTV Tỉnh ủy năm 2012
Tính đến ngày 31/12/2010, Đảng bộ tỉnh Nghệ An có 1.569 tổ chức cơ sở Đảng với 164.735 đảng viên. Qua 3 năm thực hiện Nghị quyết 17 của Tỉnh ủy về “Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 22 của Ban chấp hành Trung ương 6 (khóa X)”, việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCS Đảng đã đạt được một số kết quả nhất định, thế nhưng bên cạnh đó vẫn đang còn nhiều tồn tại, yếu kém cần phải khắc phục. Vì vậy, mục tiêu chung của dự thảo đề án là tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCS đảng, tạo sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng các loại hình TCCS Đảng; xây dựng tổ chức cơ sở Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tạo dự đoàn kết thống nhất trong Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, có nội dung, phương thức lãnh đạo khoa học, thiết thực, hiệu quả; có đội ngũ cấp ủy, cán bộ, Đảng viên đủ phẩm chất và năng lực, bảo đảm TCCS đảng là hạt nhân lãnh đạo cơ sở, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, chủ động và kịp thời giải quyết những vấn đề xảy ra từ cơ sở. Mục tiêu cơ bản là đến năm 2015, toàn Đảng bộ tỉnh có 75 – 80 % số TCCS đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh, không có yếu kém; trên 95 % khối phố, xóm, thôn bản có tổ chức đảng và đảng viên.
Sau khi nghe ý kiến góp ý các các thành viên dự họp, đồng chí bí thư Tỉnh ủy ghi nhận quá trình chuẩn bị, khảo sát, hội thảo để xây dựng đề án đã được thực hiện bài bản. Tuy nhiên, Bí thư Tỉnh ủy cũng yêu cầu, ban soạn thảo dự thảo cần rút gọn lại phần ưu điểm, phân tích sâu hơn những nhược điểm, nguyên nhân và có giải pháp phù hợp. Trong mục tiêu cần phải chú trọng đến sự chuyển biến, nâng cao chất lượng hoạt động, tính khả thi, tránh hình thức. Về giải pháp cần bổ sung thêm việc bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ cấp ủy, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng; cụ thể hóa nhiệm vụ lãnh đạo phù hợp với từng loại hình TCCSĐ; công tác kiểm tra chế độ sinh hoạt chi bộ, xem xét đề xuất giải thể chi bộ phường xã; chế độ chính sách cho cán bộ TCCSĐ; đưa các vấn đề thực tiễn nổi cộm của tỉnh ta vào đề án để có tính khả thi và đi vào cuộc sống một cách hiệu quả hơn.
Các đồng chí trong Ban Thường vụ cũng đã nghe và đánh giá tình hình thực hiện các mũi trọng điểm theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 17. Bảy mũi kinh tế trọng điểm mà Nghị quyết đề ra là: Khai thác, chế biến khoáng sản, trọng tâm là xi măng, vật liệu xây dựng, sắt, đá trắng, thiếc; Điện, Bia, Mía đường; Chăn nuôi đại gia súc và chế biến sữa; Kinh tế rừng, trọng tâm là trồng và chế biến gỗ cao su, chè; Hình thành và phát triển một số công nghệ cao. Báo cáo nêu rõ kết quả triển khai và giải pháp cụ thể để triển khai các mũi kinh tế trọng điểm. Những giải pháp chung để đẩy nhanh tiến độ triển khai được đưa ra là: sớm hoàn thành phê duyệt điều chỉnh qui hoạch tổng thể phát triển KT – XH và điều chỉnh qui hoạch phát triển ngành lĩnh vực. Cải thiện mãnh mẽ môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; Đẩy mạnh kinh tế đối ngoại, thực hiện tốt liên kết vùng tạo điều kiện phát huy tốt các thế mạnh các mũi kinh tế trọng điểm của tỉnh; Phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là những công trinh phục vụ phát triển các vùng kinh tế trọng điểm và các mũi đột phá trong phát triển; chăm lo công tác giải phóng mặt bằng; Tăng cường sự chỉ đạo các cấp các ngành để đẩy nhanh tiến độ các mũi trọng điểm.
Kết luận nội dung này, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Phan Đình Trạc đánh giá 7 mũi kinh tế trọng điểm của tỉnh theo Nghị quyết đề ra đã có một số chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, hiện nay tỉnh cần xem xét và kêu gọi đầu tư cho một số dự án xi măng trên địa bàn; rà soát lại các dự án chế biến thép, thiếc để xử lý; đảm bảo môi trường và phòng chống tai nạn lao động trong khai khác khoáng sản. Đối với điện, cần xúc tiến dự án thủy điện Mỹ Lý, xử lý dự án nhiệt điện Đông Hồi, rà soát các công trình thủy điện nhỏ. Đối với mũi trọng điểm là bia thì tạo điều kiện thuận lợi đồng thời quan tâm đến môi trường. Về mía đường chú ý giải quyết bệnh chồi cỏ và đẩy mạnh luân canh, giải quyết vấn đề tranh chấp nguyên liệu. Đối với chăn nuôi đại gia súc, đàn bò sữa cần quan tâm công tác phòng chống dịch bệnh, đảm bảo nguồn nước sạch cho chăn nuôi, phát triển trang trại đại gia súc. Về kinh tế rừng: tập trung giải quyết vướng mắc cho dự án trồng cây cao su, cây nguyên liệu giấy, cây dược liệu; Cấm thành lập nhà máy gỗ dăm, bột giấy trên địa bàn; Có chính sách phát triển rừng nguyên liệu, cây nguyên liệu chè; Củng cố lại hệ thống bảo vệ rừng, đổi mới tổng đội thanh niên xung phong và các lâm trường, nhất là lực lượng kiểm lâm và các chủ rừng và hình thành các khu ứng dụng công nghệ cao.
(Mai Hương)
