Kênh nhà Lê trên đất Nghệ An (Phần 4): Kênh Sắt - Thiết Cảng trong quần thể du lịch Cấm Giang
Kênh Sắt còn gọi là Thiết Cảng, vì chảy quanh qua núi sắt nên có tên như thế và được xếp là một trong tám cảnh đẹp nhất huyện Đông Thành xưa. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí”, kênh nhà Kê - kênh Sắt dài 30 dặm, tức khoảng 12km, bắt đầu được tính từ bến đò Cấm thuộc xã Nghi Yên - huyện Nghi Lộc chạy đến gần Đền Cuông xã Diễn An, rồi qua Diễn Phú, Diễn Thọ của huyện Diễn Châu.
Bia đá trên núi Sở xã Diễn An - Diễn Châu có khắc bài thơ nhan đề “Kênh Sắt”. Trên bia có khắc rõ thời gian là Thiệu trị năm thứ 2 – 1842. Bia còn có phần chú giải được những người thông thạo Hán – Nôm dịch như sau: "Sử chép vào đời Đường – Trung Quốc, khi Cao Biền vào làm Đô hộ sứ (865-875) có sai đào con kênh để tiện việc vận chuyển. Khi đến địa phận huyện Hưng Nguyên thì gặp phải những tảng đá lớn không sao đào tiếp được nữa. Trong lúc mọi người tưởng đã bó tay thì một hôm vào tháng 5, giữa ban ngày bỗng có sấm sét dữ dội. Nhiều tảng đá bị đánh vỡ tan, chỉ còn 1 tảng đã lớn cản đường, khiến người dân không thể đào xong kênh. Đến tháng 6, lại nghe một tiếng sét lớn, hòn đá ấy lập tức vỡ vụn. Con kênh vừa đào xong, người ta gọi là kênh Thiên Uy. Vì phía tây kênh này có truông Sắt - Thiết huyệt Sơn - nên còn có tên gọi là kênh Sắt.. ”
Trong bản đồ chữ Hán triều Nguyễn ở huyện Hưng Nguyên có vẽ Kênh Sắt và chú thích về Thiết Cảng như sau: "Thiết Cảng tự Cấm Giang chí Thiên Uy Cảng, trường thập lý, quảng tứ tượng, triều thâm tứ xích, tịch nhị xích". Dịch là: Thiết Cảng từ sông Cấm chạy đến Thiên Uy Cảng, dài 10 lý, rộng 4 trượng, triều lên sâu 4 xích, triều xuống 2 xích. 10 lý là vào khoảng 4 km.
Như vậy, Thiết Cảng là Kênh Sắt và do chảy qua chân núi Sắt nên gọi tên như thế. Do gặp đá quặng nên đọan này không thể đào sâu, tàu bè chở hàng thường không đi qua được. Hàng hóa thường được vận chuyển bằng cách xuống tàu lớn chở ra biển Cửa Vạn rồi theo Cửa Hiền đi vào sông Cấm.
Nhiều triều đại sau như triều Hồ, triều Tây Sơn đã để công, tập trung sức lực, tiền bạc đào kênh Sắt nhưng đều không thể hoàn thành. Quanh việc đào Kênh Sắt, còn có nhiều câu chuyện lưu truyền. Gần hòn Nẻ, có đền thờ Bạch Y Công chúa, con gái Vua Hồ Quý Ly. Dù là công chúa yêu của đức vua nhưng nàng vẫn bị vua cha cho chém đầu vì đã bày cho dân phu và quân lính chống lại lệnh đào kênh Sắt.
Chuyện kể rằng: Quân Minh đang ráo riết chuẩn bị lực lượng xâm lược nước ta, Vua Hồ Quý Ly cùng với các con là Nguyên Trừng, Hán Thương cũng tích cực xây dựng căn cứ, bố trí lực lượng ở khắp nơi để kháng chiến chống giặc. Nhà vua cho xây dựng Thành Nhà Hồ ở trên núi Đại Huệ và huy động quân dân đào thông Kênh Sắt để vận chuyển lương thực vũ khí theo đường sông lên Đại Huệ. Việc đào sông kéo dài nhiều ngày mà không có kết quả vì mắc phải đá quặng sắt và cát sụt, quân lính và dân phu cũng cạn kiệt sức lực, nhiều người đã gục chết.
Vua Hồ sốt ruột cho đưa công chúa yêu có giọng hát mê hồn và đánh đàn rất giỏi vào đây để động viên khích lệ tinh thần quân dân đào kênh được nhanh chóng hơn. Cảnh cùng cực vì việc đào kênh của quân lính và dân phu đã làm động lòng thương của công chúa. Công chúa lại được một cụ già tốt bụng ở một làng gần đấy mách bảo, bàn bạc kế hoạch ngăn cản công việc đào kênh của vua cha để cứu dân phu.
Họ cho người cắt hết cây Máu Chó ở vùng này, rồi băm nhỏ trong đêm, đem rải xuống lòng kênh. Sáng ra cả quãng sông đang đào dở nhuốm đỏ một màu máu trông thật khủng khiếp. Lời tâu với vua cha là việc đào sông đã phạm phải long mạch (đứt cổ rồng), nên dừng công việc đào kênh lại. Kế hoạch này bị bại lộ, vua Hồ cho đưa con gái yêu lên hòn đá ở bờ kênh chém đầu để làm gương. Tảng đá (nơi công chúa bị chém đầu) đang giữa ban ngày nghe có một tiếng sét mạnh đánh xuống vỡ thành hai mảnh, nên được gọi là Hòn Nẻ. Từ đó, nàng công chúa bị chết oan khiên, cứ đêm đêm hiện hình thành cô gái mặc áo trắng đi vật vờ dọc theo bờ Kênh Sắt. Nhân dân xót thương nàng lập đền thờ và gọi là Đền Bạch Y Công Chúa, ở ngay cạnh Hòn Nẻ. Bạch Y Công Chúa đã trở thành vị thần - Thánh Mẫu linh thiêng che chở cho nhân dân xứ Nghệ.
Bên cạnh đền Bạch Y công chúa còn một số đền miếu khác thờ các vị quan thần là những người được cử đến đây chỉ huy việc đào kênh này như Thần chủ đền Mỹ Lý ở Diễn Lộc, Diễn Châu ghi: “Thiết Giang linh ứng Phạm Tự Chiêu như chủ tôn mĩ tự Thượng đẳng tôn thần”, Thần chủ ở đền thôn Văn Lâm, Nho Lâm xã Diễn Thọ - Diễn Châu “Thiết Giang linh ứng trước phong hàm quang Thượng đẳng tôn thần”.
Cho đến triều Tự Đức, khi tổng đốc Nghệ An là Hoàng Tá Viêm thực hiện việc đào Kênh Sắt, mới nhờ Nguyễn Trường Tộ - là người có tri thức khoa học về địa chất và kinh nghiệm dân gian đi cắm hoa tiêu đào lại thì Kênh Sắt mới được thông suốt như ngày nay.
Đối diện đoạn kênh này là nơi rẽ vào Bãi Lữ, một điểm du lịch tuyệt đẹp của Nghệ An. Cùng với núi Mộ Dạ, đền Cuông, cửa Hiền, Thiên Uy thiết Cảng, kênh Sắt và Bãi Lữ đã tạo thành 1 quần thể du lịch đầy hấp dẫn với du khách 4 phương khi đặt chân đến Nghệ An. Bãi Lữ ở phía Đông Bắc của huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, thuộc đất của xã Nghi Yên và Nghi Tiến, nằm trong vòng cung biển Đông Nam Lạch Vạn - Cửa Hiền - Cửa Xá của tỉnh Nghệ An. Một vùng sông núi dày đặc, trời biển mênh mông với biết bao sự tích, huyền thoại và sự kiện lịch sử sống động.
(Đường vào khu du lịch sinh thái Bãi Lữ) |
Bãi Lữ là bãi biển có phong cảnh tuyệt đẹp, nước trong xanh và ở nơi yên tĩnh nhất nhì của xứ Nghệ. Bãi Lữ là tên gọi xuất phát từ núi Lữ (Lữ Sơn). Hòn núi đứng sừng sững nơi bãi biển, như chàng lữ khách thẩn thơ đi tìm điệu hát tình tứ lẫn trong sóng biển và đằm sắc hương quê của nàng thiếu nữ tình si. Lữ khách dừng chân bên chùa, dâng nén hương cầu Phật, rồi như được tiếp thêm nhiệt và ánh sáng của Đức Phật đã quyết định đứng chân nơi đây. Chàng dõi theo dấu chân, lắng nghe điệu hát đến mê hồn của cô gái biển như Nàng Tiên Cá ở trong truyện cổ tích. Ta cũng như bị chìm đắm vào tích chèo cổ "Quan âm thị kính" để cùng chàng Lữ Ngọc đi tìm người con gái yêu là Tiểu Hồng ở chốn này?!
Trên đường vào Cổng Trời - Bãi Lữ có ngôi Đền thờ Sơn Thần và Thánh Mẫu, nguyên là Đền Nẻ ở nơi sông La Hoàng và Khe Nễ chảy ra Cửa Hiền dời vào đây. Đoạn sông ra Cửa Hiền nay đã bị lấp, chính là nơi diễn ra bi kịch nàng Mỵ Châu bị vua cha An Dương Vương chém đầu và cầm sừng tê rẽ sóng đi xuống biển - Bãi Lữ. Ngôi mộ Mỵ Châu ở La Nham tức là chốn này. Giếng Ngọc là giọt máu cuối cùng của Mỵ Châu đọng lại để cho chàng Trọng Thuỷ soi vào và biến thành viên ngọc trai lóng lánh.
Đứng trên ngọn núi Lữ, ta có thể ngắm trọn vẹn cảnh quan một vùng rộng lớn. Phía biển khơi (Đông - Nam) thấy rõ Song Ngư, Đảo Mắt, Lan Châu và gần hơn nữa vào đất liền là Hùng Lĩnh, Lan Châu, Núi Rồng, Núi Lò, Núi Cờ, Núi Kiếm, Chuồng Gà, Núi Mão, Tượng Sơn (Núi Voi), Quyết Sơn. Phía Bắc, dọc theo biển là núi Đầu Rồng (Long Thủ), Hòn Thè, Hòn Câu, Dạ Sơn, Cấm Sơn. Phía Tây là Đại Vạc, Thần Vũ, Lèn Hai Vai, Đại Hải, Đại Bàn, Đại Tứ, Đại Huệ, Thiên Nhẫn, Lam Thành Sơn... Sông Cấm nước xanh trong một dải xuôi về biển Cửa Lò bên hữu Bãi Lữ đã tôn đẹp thêm bức tranh Cổng Trời - sóng biển khơi Bãi Lữ. Với cảnh quan thiên nhiên mà tạo hoá ban tặng, có người đã ví Bãi Lữ như một Đà Lạt trên biển.
Ở cột mốc 21 hướng về phía
Từ sông Cấm, kênh nhà Lê tiếp tục được đào thông cho đến sông Lam. Tuyến kênh này gồm các đoạn: Kênh Gai, sông Chính Đích, Sông Vĩnh – sau này gọi là sông Vinh. Kênh Nhà Lê các đoạn này đi qua huyện Hưng Nguyên và Thành phố Vinh. Tương truyền, Kênh Nhà Lê được đào dựa vào những con sông nhỏ và men theo các hẻm núi, đi từ Hà Nội đến Nghệ An rồi vào
Thời gian dần trôi đi, nay ruộng lúa, đồng khoai của nhà nông bao quanh làm cho phù sa ngày 1 lấp đầy lòng kênh, nhiều đọan kênh đã dần biến mất trở thành bình địa, nhà cửa, đường xá. Dù là vậy, thì Kênh Nhà Lê đi qua huyện Nghi Lộc vẫn là một điểm nhấn không thể thiếu trong quần thể du lịch mỗi lần du khách đến với Bãi Lữ - Nghệ An.
(Việt Anh)