Đời sống - Xã hội

Người cựu chiến binh trên đoàn tàu không số huyền thoại

09:48, 27/04/2020
Thời gian đã trôi qua gần 50 năm, nhưng ký ức về trận chiến trên biển cùng đồng đội vẫn luôn hiện hữu trong trí nhớ của ông Hồ Đình Thuần (sinh năm 1943) – người lính của đoàn tàu không số năm xưa.

Cầm trên tay bức ảnh con tàu không số được Hội truyền thống Đường Hồ Chí Minh trên biển trao tặng, trò chuyện với chúng tôi, ông Hồ Đình Thuần ở khối 10, thị trấn Cầu Giát, huyện Quỳnh Lưu cho biết: Năm 1965 ông nhập ngũ vào đơn vị huấn luyện E170, sau đó được cử đi đào tạo nghành Hàng Hải và chuyển về công tác ở đoàn 125 - Bộ Tư lệnh Hải quân để phục vụ công tác trên các chuyến tàu không số. 

Gần 50 năm trôi qua nhưng mỗi lần nhớ đến trận chiến đó ông Thuần vẫn nhớ thương đồng đội.

Giữa năm 1966, chiến sỹ Hồ Đình Thuần cùng 22 đồng đội do đồng chí Phan Xạ làm thuyền trưởng sang Trung Quốc nhận chiếc tàu trọng tải 200 tấn có tên Nhật Lệ (tàu C – 69B). Tháng 4/1971, khi cuộc chiến đang cam go, nhu cầu chi viện cho chiến trường ngày một lớn, tàu Nhật Lệ được lệnh ra cảng Bạch Thái Bưởi (Hải Phòng) chở hàng đưa vào Cà Mau để chi viện cho chiến trường Đông Nam Bộ. Trước lúc lên đường Quân chủng Hải quân đã làm lễ truy điệu sống cho cán bộ, chiến sỹ trên tàu, nghĩa là ai cũng sẵn sàng chấp nhận hy sinh. Con tàu giả dạng tàu dầu nước ngoài theo hướng Nam thẳng tiến. Trên đường đi, các loại tàu chiến và máy bay trinh sát của Mỹ luôn bám sát, buộc thuyền trưởng Phan Xạ dùng nhiều chiến thuật đánh lạc hướng đối phương. Chiều tối ngày 13/4/1971, sau nhiều ngày cơ động trên biển, tàu C-69B nhận được lệnh chuyển hướng vào bờ. Tuy nhiên đến khoảng 22h45 phút, khi tàu cách bờ 25 hải lý bỗng có tín hiệu đỏ bắn lên từ ngoài khơi, rồi pháo hạm từ một tàu khu trục dội vào, thuyền trưởng Phan Xạ phát lệnh báo động chiến đấu. Đồng thời, báo cáo cấp trên tàu C- 69B đã bị địch phát hiện và nhận lệnh cơ động vòng tránh để bảo toàn lực lượng, vũ khí và hàng hóa. Tàu liên tục đổi hướng trên vùng biển Cà Mau – Bạc Liêu nhưng địch đã khép chặt vòng vay. 3 bên đều có tàu khu trục của Mỹ, phía trong bờ các loại xuồng cao tốc của địch như mắc cửi, trên không máy bay trực thăng gầm rú, chiếc đèn pha sáng rực cả một vùng.

Thế hệ trẻ Quỳnh Lưu đến thăm ông Hồ Đình Thuần – người lính của đoàn tàu không số năm xưa.

Tình hình rất nguy cấp, thuyền trưởng điện về Sở chỉ huy xin phép thực hiện phương án 2 là nổ sung trực tiếp chiến đấu đánh trả địch. Các chiến sỹ vào vị trí chiến đấu, lực lượng tàu chiến của địch quá đông, lại được máy bay yểm trợ nên cuộc chiến gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm. Tàu bị trúng một quả rốc-két làm gãy cần cẩu ở mũi, thuyền phó phụ trách hỏa lực Nguyễn Văn Tú (quê Thái Bình), pháo thủ Lâm Thanh Hồng (quê Nam Hà) lần lượt hy sinh. Rồi một loạt rốc – két từ máy bay bắn xuống trúng ca bin, máy lái bị hỏng nặng, người bạn đồng hương Quỳnh Lưu của ông Thuần là Trần Văn Nhân trúng đạn hy sinh. Tình thế mỗi lúc một nguy hiểm, tất cả hội ý và thống nhất xin cấp trên thực hiện phương án 3 là phá hủy tàu, không để vũ khí và hàng hóa rơi vào tay địch.

Ông Thuần cùng các chiến sỹ đoàn tàu không số năm xưa.

Thuyền trưởng Phan Xạ hô vang: “Tất cả kiểm tra quân số ai còn, ai mất, những đồng chí đã mất phải cho vào túi tử để đem vào bờ”. Công việc diễn ra mau lẹ, 5 đồng chí hy sinh được đưa vào túi tử, 18 người còn lại chuẩn bị vũ khí cá nhân và áo phao, chia thành 3 tốp, tổ chức điểm hỏa cho 4,8 tấn bộc phá rồi bơi vào bờ, người rời tàu cuối cùng là thuyền trưởng Phan Xạ.
Chiến sỹ Hồ Đình Thuần rời tàu cùng áo phao, khẩu AK báng gấp, 3 băng đạn, mấy quả lựu đạn, mặt nạ chống độc, túi lương khô và thi hài một đồng đội nằm trên chiếc phao phía sau. Lúc này, thuyền cách bờ khoảng 5 hải lý, địch vẫn tiếp tục vây riết và pháo kích đồn đập. Không thấy ta đánh trả, địch biết ta đã rời tàu nên cho trực thăng bay thấp, rà khắp mặt biển và xối xả bắn xuống hòng tiêu diệt. “Lúc ấy chỉ nghĩ đến việc chiến đấu, không nghĩ đến chuyện sống chết, vừa bơi vừa lăm lăm khẩu súng và để ý thi hài đồng đội phía sau”. Ông Thuần kể lại.

Ông Hồ Đình Thuần chia sẻ về trận chiến sinh tử trên đoàn tàu không số. 

Khoảng 4h sáng ngày 14/4, tốp của ông Thuần bơi được vào bờ. Một tiếng nổ vang lên, đất trời rung chuyển, cả rừng đước ven biển Cà Mau cũng giật mình, bộc phá trên tàu đã phát nổ. Rồi tất cả im bặt, không một tiếng súng, côn trùng cũng không còn rên rỉ, một sự im lặng rợn người. Nhanh chóng chôn cất đồng đội, ăn lương khô lót dạ để lấy sức cho trận chiến tiếp theo, vì địch biết ta đã phá hủy tàu thế nào cũng tìm cách bơi vào bờ nên đã đổ quân bao vây. Quả đúng như vậy, địch đã cho 2 tiểu đoàn chờ sẵn ở cửa sông Gành Hào (Cà Mau), lại bắt đầu một cuộc chiến sinh tử.

Tuổi trẻ Quỳnh Lưu thăm và tặng quà cho chiến sỹ đoàn tàu không số Hồ Đình Thuần.

Chiến sỹ Hồ Đình Thuần và các đồng đội trong tốp lần vào rừng đước, lần theo hướng Tây thẳng tiến với ý nghĩ càng xa bờ biển càng tốt. Bỗng dưng một tiếng lựu đạn nổ vang, rồi loạt đạn AK giòn giã, tiếp đến là tiếng súng vang lên xối xả của địch. Tránh xa hướng có tiếng súng, những chiến sỹ tàu không số lội bì bõm giữa khu rừng ngập mặn, lương khô hết, mệt và đói đến lả người. Để chống chọi với cái đói, ông và đồng đội phải bắt cua quấn với lá đước ăn gỏi, nồng nặc mùi tanh nhưng vẫn cố nuốt để giành lấy cơ hội sống sót. Sau gần 1 tuần lạc nhau giữa rừng đước, những người lính của tàu C-69B gặp lại nhau với sự tương trợ của quân giải phóng. Gặp lại nhau mới biết tiếng lựu đạn và AK hôm nọ là của chiến sỹ Nguyễn Văn Hùng dùng để đánh lạc hướng, mở đường máu cho đồng đội ở tốp 2 thoát khỏi vòng vây của địch. Người chiến sỹ ấy hy sinh khi vừa tròn 19 tuổi, là thợ máy của tàu, quê Từ Liêm (Hà Nội). Còn thuyền trưởng Phan Xạ -người cuối cùng rời tàu đã bị máy bay địch phát hiện và bắn chết lúc bơi trên biển. Những người còn lại ôm lấy nhau mà khóc, khóc vì thương những đồng đội đã ngã xuống nơi mảnh đất cực Nam xa xôi này.

 

Sau trận chiến ấy, ông Hồ Đình Thuần ở lại Quân khu 9 tiếp tục chiến đấu và công tác, được giao nhiệm vụ đào tạo thợ máy cho Trường Hàng hải chuẩn bị cho việc giải phóng biển đảo. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ông được về Quân khu 4 an dưỡng, chuyển về công tác ở huyện ủy Nghĩa Đàn và nghỉ hưu năm 1988. 

Thanh Toàn

Sự kiện liên quan

Xem thêm sự kiện