Giao thông lâm nghiệp nội vùng và vấn đề quy hoạch, bảo vệ rừng ở Nghệ An
Tỉnh đã triển khai nhiều chương trình, dự án về bảo vệ và phát triển rừng, như Chương trình 327 phủ xanh đất trống, đồi núi trọc; dự án 661 với chương trình 5 triệu hecta rừng, Chương trình 135,... Các chương trình kinh tế lớn trong phát triển tài nguyên rừng được toàn dân hưởng ứng và tích cực tham gia. Những năm qua, bằng nhiều giải pháp tích cực, chủ động, tập trung chỉ đạo quyết liệt, công tác bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng ở Nghệ An đã đạt nhiều thành tựu. Tài nguyên rừng được giữ vững và từng bước nâng lên. Trong 10 năm (2000-2010), Nghệ An đã trồng được trên 100.000ha rừng tập trung và hàng vạn cây phân tán.Công tác bảo vệ, khai thác sử dụng và làm giàu từ tài nguyên rừng chuyển biến sâu sắc từ lâm nghiệp quốc doanh sang nền lâm nghiệp xã hội đã góp phần nâng cao tỷ lệ độ che phủ rừng trên địa bàn Nghệ An từ 42% vào năm 2000 đã tăng lên trên 53% vào năm 2010.
![]() |
|
Rừng keo 3 năm tuổi ở Thạch Sơn, Con Cuông
|
Có được kết quả đó là do chuyển từ phương thức khai thác tận dụng tài nguyên rừng sang khai thác sử dụng tổng hợp một cách bền vững, đồng thời áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới và thực hiện các chủ trương, chính sách mạnh mẽ như: tiến hành phúc tra, đánh giá quy hoạch tài nguyên rừng theo 3 loại rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất; Khoanh nuôi bảo vệ rừng, làm giàu rừng bằng việc trồng bổ sung các loại cây có giá trị kinh tế, Các chương trình trồng rừng 327, 661, trồng rừng phòng hộ, rừng nguyên liệu giấy, gỗ công nghiệp.
Bên cạnh đó, tỉnh Nghệ An đã ban hành nhiều chính sách nhằm đẩy nhanh tốc độ trồng rừng như đề án xã hội hóa công tác bảo vệ rừng, đề ra nhiều giải pháp bảo vệ vốn rừng hiện có như: giao đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn, bản; ký và thực hiện cam kết bảo vệ, phát triển rừng với các thôn, bản; tăng cường công tác kiểm lâm, thực hiện phương châm bảo vệ rừng tại gốc; tích cực ngăn chặn, xử lý việc mua bán, tàng trữ lâm sản trái phép. Đặc biệt, chủ trương giao khoán quản lý và bảo vệ rừng tận gốc đã phát huy hiệu quả cao nhất, rõ nhất trên những địa phương có diện tích rừng quản lý lớn.
Với chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước vai trò tích cực của các cấp ngành địa phương và nhân dân lao động trong tham gia quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng đã được phát huy đáng kể. Nhờ đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục Luật bảo vệ và phát triển rừng với nhiều hình thức đa dạng, phong phú và có hiệu quả đã làm chuyển đổi sâu sắc nhận thức của cán bộ, nhân dân trong việc bảo vệ rừng, xây dựng phát triển vốn rừng và đưa công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng trở thành sự nghiệp chung của toàn xã hội.
Có thể thấy, việc giao khoán là một giải pháp bền vững vừa góp phần giữ rừng, vừa tạo việc làm, nâng cao đời sống và thu nhập cho những hộ nhận khoán khoanh nuôi, bảo vệ và sản xuất trên đất rừng. Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, ngoại trừ những lâm phần được giao chăm sóc và bảo vệ thì hầu hết, diện tích đất rừng phục vụ mục đích sản xuất đều nằm ở vùng sâu vùng xa, chưa có giao thông đi lại hoặc đi lại khó khăn. Vì vậy, quá trình đầu tư trồng rừng của người dân đã hết sức vất vả thì đến kỳ thu hoạch lại càng khó khăn hơn. Giao thông lâm nghiệp nội vùng không chỉ phục vụ khai thác cây nguyên liệu mà đây còn là hệ thống đường phục vụ cho việc trồng mới sau khai thác. Trong nhiệm vụ quy hoạch quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng thì đường nội vùng lâm nghiệp không chỉ phục vụ công tác PCCCR trong mùa khô, làm đường băng cản lửa để bảo vệ rừng nếu xảy ra hỏa hoạn mà còn góp phần phát triển kinh tế, dân sinh ở những vùng sâu, vùng xa. Trước những khó khăn và bài toán quy hoạch giao thông lâm nghiệp nội vùng, để giảm thiểu thiệt hại cho người dân trồng rừng trong quá trình khai thác và vận chuyển sau khai thác do không có giao thông, nhiều đơn vị quản lý rừng đã đầu tư xây dựng mạng lưới đường lâm nghiệp nội vùng.
Hệ thống đường lâm nghiệp nội vùng có vai trò hết sức quan trọng trong quản lý, chăm sóc, bảo vệ và trồng rừng. Mặc dù vậy, việc đầu tư xây dựng loại hình giao thông này đang còn gặp rất nhiều khó khăn do cần phải có chương trình, có quy hoạch lâu dài và giám sát, quản lý chặt chẽ gắn với trách nhiệm của chính quyền địa phương và nhân dân nơi có rừng. Trong thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách trong tất cả các khâu để làm tốt quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng như hỗ trợ về giống, vật tư phân bón, đảm bảo quyền và lợi ích cho người trồng, hỗ trợ kỹ thuật khuyến nông – khuyến lâm và nhiều chương trình hỗ trợ khác.
Tuy nhiên, quá trình giao khoán và đẩy mạnh phong trào trồng và bảo vệ rừng còn nảy sinh nhiều vấn đề trong đó giao thông lâm nghiệp nội vùng là vấn đề khá bức thiết đối với người dân tham gia trồng rừng khi mà nhu cầu cơ giới hoá trong khai thác, vận chuyển nguyên liệu đang có những thay đổi so với trước đây. Hạch toán cho thấy trồng 1 ha rừng kinh tế bằng cây mô hom sau 5-6 năm cho thu lãi từ 50-60 triệu đồng. Thế nhưng, bài toán trên cho thấy, không có giao thông nội vùng rừng trồng thì con số đó chỉ là tính toán trên giấy mà thực tế, công sức lao động và tiền của mà người nhận đất rừng thu lại được sau khi đầu tư sẽ đến lúc chỉ bằng không hoặc trở thành 1 con số âm.
Như vậy, chỉ cần nhìn vào phép tính trong hạch toán chi phí đầu tư, sản xuất và lợi nhuận cũng có thể thấy, đời sống người nhận rừng đang đối diện với nhiều khó khăn do thu nhập từ trồng rừng đang bị khấu hao rất lớn cho chi phí vận chuyển do không có đường lâm nghiệp nội vùng. Sự bất cập này không chỉ vướng mắc trong khâu khai thác và vận chuyển sau khai thác mà còn dẫn đến sự chênh lệch từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ lâm sản một khi có tình trạng chi phí gia tăng cùng với giá cả thị trường không ổn định. Và những thiệt thòi này chủ yếu lại rơi vào những người một nắng hai sương với rừng.
Hiện nay, các địa phương tập trung chủ yếu các nhiệm vụ xây dựng kế hoạch trồng và quản lý rừng tập trung, rừng giao khoán...; Hướng dẫn, tổ chức cho các hộ dân đăng ký trồng rừng theo cam kết; Hướng dẫn kỹ thuật, nghiệm thu sơ bộ hiện trường trồng rừng của các hộ dân. Vì vậy, việc quy hoạch làm đường giao thông vùng trồng rừng không thuộc thẩm quyền quản lý, không có kinh phí, quy mô vượt quá khả năng của địa phương... Về phía người dân, sau khi đăng ký tham gia và nhận khoanh nuôi, bảo vệ chủ yếu là chuẩn bị hiện trường trồng rừng trên diện tích đất lâm nghiệp được giao, hoàn thành tốt tiến độ trồng khi có giống, vật tư... Ranh giới lâm phần được giao theo quy định của nhà nước, do dó, không thể tự ý mở đường và cũng không có vốn để thực hiện... Do vậy, trong quy hoạch các tiểu khu, các khoảnh... bàn giao cho các cá nhân, hộ, tập thể... quản lý và bảo vệ rừng trong đó có rừng trồng khai thác rất cần sự vào cuộc nhà nước trong quy hoạch giao thông lâm nghiệp, xây dựng mạng lưới đường nội vùng trồng rừng; góp phần trồng và bảo vệ rừng ngày càng tốt hơn.
Một thực tế cho thấy địa hình và điều kiện khác nhau thì việc định mức suất đầu tư chắc chắn sẽ khác nhau do chi phí phát sinh khác nhau. Rừng thuộc địa bàn vùng sâu vùng xa, cơ sở hạ tầng khó khăn, chưa có đường giao thông đi lại, để triển khai được đòi hỏi chi phí phải gia tăng so với những vùng khác, do đó người trồng rừng ở những vùng này sẽ bị thiệt thòi khi định mức hỗ trợ chung 1 mức như nhau. Chưa kể, bên cạnh đó, giá cả thị trường biến động liên tục, gặp khó khăn trong khai thác vận chuyển, chí phí sản xuất gia tăng... Những thiệt hại về kinh tế cho người dân trồng rừng quá lớn sẽ không kích thích được động cơ tích cực của người trồng rừng hăng hái nhận đất, nhận rừng, phát triển lâm nghiệp. Vì vậy, việc điều chỉnh chính sách phù hợp, thiết thực sẽ khuyến khích được phong trào phát triển mạnh theo mục tiêu XHH bảo vệ rừng – lâm nghiệp xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
Trồng rừng không chỉ góp phần phủ xanh đất trống đồi núi trọc, cải thiện môi trường sinh thái, tạo nguồn sinh thuỷ mà còn mang lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp và người dân. Đẩy mạnh trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ rừng còn là nhằm góp phần ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh, đặc biệt là vùng biên giới, tạo nguồn nguyên liệu từ gỗ để tiêu dùng và xuất khẩu. Vì vậy, cần quan tâm có cơ chế chính sách đồng bộ để phong trào bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng phát huy hiệu quả, đưa lâm nghiệp thành ngành kinh tế mũi nhọn góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
(Việt Anh)

