Những cảnh báo từ việc phá vỡ quy hoạch trồng sắn nguyên liệu
![]() |
|
| (Ảnh minh họa) |
Mặc dù Tân Kỳ chỉ được tỉnh quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu sắn 570ha nhưng trong năm 2010 diện tích sắn toàn huyện đã lên gần 1.800ha. Năm nay, diện tích sắn tiếp tục tăng, lên đến trên 2.200ha. Cây sắn được trồng xen trong các loại cây công nghiệp, hoặc trên diện tích đã phá bỏ cây lâm nghiệp để trồng sắn khá phổ biến. Việc phát triển diện tích sắn theo hình thức tự phát tại các địa phương đang gây lúng túng trong quy hoạch vùng nguyên liệu sắn của huyện. Dọc theo các xã trên đường Hồ Chí Minh, từ Nghĩa Hành, Tân Hương cho đến Nghĩa Bình từng đồi sắn được trồng nối dài. Sắn được nông dân trồng nhiều trên các chân đồi, khu vườn, thậm chí trong các vườn ươm cây giống, rừng keo. Chị Phạm Thị Hòa, xóm 9 xã Tân Hương, cho biết: Gia đình chị có 4ha đất rừng nhận khoanh nuôi và trồng keo. Tuy nhiên, vài năm gần đây nhận thấy trồng sắn nguyên liệu nhanh có thu nhập, gia đình chị đã khai thác non hết diện tích keo gần 4 năm tuổi chuyển sang trồng sắn.
Trường hợp của gia đình chị Hòa chỉ là một trong số hàng trăm hộ có đất rừng ở xã Tân Hương nói riêng và huyện Tân Kỳ nói chung đã chặt bỏ cây lâm nghiệp để chuyển sang trồng sắn nguyên liệu. Đây là một trong những nguyên nhân chính khiến diện tích sắn ngoài quy hoạch của huyện Tân Kỳ tăng đột biến trong vài năm gần đây. Ngoài 6 xã dọc đường Hồ Chí Minh được quy hoạch trồng sắn thì nay cây sắn còn có mặt với diện tích không hề nhỏ tại các xã: Giai Xuân, Tân Xuân… Thậm chí, thực tế ở các xã được giao chỉ tiêu trồng sắn đều phổ biến tình trạng vỡ quy hoạch. Đơn cử như xã Nghĩa Hành quy hoạch 100ha thì nay diện tích thực tế đã lên đến 255ha; xã Phú sơn chỉ tiêu chỉ có 50ha nhưng hiện tại có 100ha trồng sắn; xã Nghĩa Bình cũng đã vượt gần 150ha trong khi diện tích quy hoạch chỉ là 200ha… Theo tính toán của bà con nông dân, chi phí trồng 1ha keo mất khoảng 10 triệu đồng, nếu trồng sắn thì đầu tư cũng bằng trồng keo nhưng trồng keo 6-7 năm mới có thu hoạch, trong khi trồng sắn thu hoạch, đem lại thu nhập năm một. Bên cạnh đó một ha keo đến kỳ thu hoạch chỉ lãi khoảng 20 triệu đồng trong khi đó một ha sắn nếu theo giá năm nay (1 triệu đồng/tấn) cũng đã có lãi hơn 10 triệu đồng. Như vậy, lợi nhuận hấp dẫn từ trồng sắn nguyên liệu đang thực sự làm thay đổi cách nghĩ, cách làm của người nông dân ngay trên những diện tích dành cho quy hoạch trồng rừng.
Trước đây, cây sắn đóng vai trò là cây lương thực quan trọng trong đời sống của bà con nông dân huyện Tân Kỳ. Quy hoạch phát triển lâm nghiệp huyện năm 2004 đã xác định phát triển cây sắn trở thành cây hàng hóa, cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy tinh bột sắn Yên Thành theo đúng hướng chỉ đạo của tỉnh. Trong chủ trương, huyện Tân Kỳ và các xã chỉ chỉ đạo bà con chuyển đổi trồng sắn trên diện tích đồi có độ dốc phù hợp dưới 15 độ, đất đã trồng sắn hàng năm phải thực hiện luân canh cây trồng khác như Ngô, Đậu, Lạc… Song thực tế các hộ đã phá rừng để trồng sắn hoặc trồng không đúng vùng quy hoạch hầu như đều không tuân thủ quy trình kỹ thuật này.
Mấy năm gần đây, diện tích cây sắn được trồng ở các địa phương đang tăng nhanh. Có những khu vực diện tích trồng sắn đang tăng theo cấp số nhân. Ở Nghệ An, một số huyện như Thanh Chương, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp... cây sắn đã phát triển với tốc độ cực nhanh và mức độ lan nhanh đã đến mức khó kiểm soát. Bằng chứng là không ít nơi, nông dân đã phá bỏ rừng để trồng sắn. Và với nguồn thu nhập như hiện nay của những người trồng không ai phủ nhận lợi ích của cây sắn. Khi tìm hiểu tình hình cây sắn tại xã Nghĩa Bình - một trong những xã đầu tiên của huyện Tân Kỳ đưa cây sắn cao sản vào trồng thì một cán bộ nông nghiệp xã này khẳng định: Cây sắn là cây xóa đói giảm nghèo, nếu nói rằng cần thực hiện diện tích cây sắn theo đúng quy hoạch thì đó là chủ trương đã lạc hậu, bởi nhờ cây sắn nông dân đất đồi và đất bãi của xã mới có mức sống cân bằng nhau. Có lẽ vì cách nghĩ như vậy nên Nghĩa Bình bây giờ đã là xã có diện tích sắn nguyên liệu lớn nhất hiện nay của huyện, vượt quy hoạch đến cả trăm ha.
Theo nghiên cứu, phát triển diện tích trồng sắn lớn sẽ là tác nhân gây nên tình trạng sa mạc hóa tài nguyên đất, xói mòn, lũ lụt cục bộ ảnh hưởng đến môi trường. Bởi thực tế chỉ sau 3 đến 4 năm trồng sắn liên tiếp trên một vùng đất thì cây sắn cũng cằn cỗi dần và khó phát triển. Các loại cây khác cũng không thể sống được trên khu vực đất đã trồng sắn lâu năm. Theo các nhà khoa học, rễ cây sắn, đặc biệt là cây sắn công nghiệp lấy các chất hữu cơ trong đất và thải ra một loại a-xít có hại cho cây trồng, đồng thời làm chai cứng nền đất và hủy diệt các vi sinh vật có lợi cho cây trồng... Mọi người dân khi được hỏi vì sao trồng sắn đều khẳng định do chất đất quá nghèo không trồng được loại cây gì hiệu quả nên mới trồng sắn. Tuy vậy, ngoài yếu tố giá cả thì nguyên nhân sâu xa của việc cây sắn phát triển nhanh còn do tập tục sản xuất của bà con miền núi. Chính vì cây sắn không phải tốn công chăm sóc, ít sâu bệnh, dễ trồng lại có lợi nhuận trước mắt nên dẫn đến tình trạng ồ ạt trồng sắn trong thời gian vừa qua.
Đến nay, tinh bột sắn sản xuất trong nước có đến 99% xuất bán cho thị trường Trung Quốc. Chỉ cần so sánh trong hai năm 2010 và 2011 đã cho thấy thị trường của mặt hàng này luôn tiềm ẩn nguy cơ bất ổn định, ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả thu mua sắn nguyên liệu của nông dân. Trong năm 2010, giá sắn nguyên liệu đạt mức bình quân 1.900 dồng/1kg và có thời điểm lên đến 2.300 đồng/1kg. Với mức giá này người trồng sắn có lãi từ 40 - 50 triệu đồng/ha. Có lợi nhuận cao nên năm 2011 người dân đổ xô trồng sắn, tuy vậy hiện tại mức giá thu mua tại ruộng đã rớt 1/2 so với năm ngoái, xuống còn 1.000 đồng/1kg. Trước nguy cơ thoái hóa đất, cộng với việc phát triển cây sắn ngoài quy hoạch không có chính sách, cơ chế hỗ trợ thì cái giá mà người trồng phải trả khi sắn nguyên liệu rớt giá sẽ là rất đắt. Do vậy, đã đến lúc các địa phương cần phát triển có kiểm soát diện tích trồng cây sắn công nghiệp, đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, vận động người dân thấy rõ tác hại của “hậu” cây sắn.
Với công suất hiện tại của 2 nhà máy chế biến tinh bột sắn đóng tại huyện Thanh Chương và Yên Thành thì diện tích 6000ha (trong đó có 4000ha sắn đứng) được quy hoạch cơ bản đã bão hòa và đảm bảo hiệu quả hoạt động. Định hướng của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nghệ An trong năm 2011 và những năm tới đối với cây sắn công nghiệp là ổn định diện tích trồng sắn hiện có, tăng sản lượng theo hướng thâm canh tăng năng suất để sản xuất sắn có hiệu quả cao và bền vững. Khuyến khích nông dân mở rộng diện tích trồng sắn xen lạc, xen keo... Bên cạnh đó, cùng với quá trình xây dựng nông thôn mới, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn Nghệ An cũng đã định hướng các địa phương một số cây trồng vừa phù hợp với khí hậu, đất đai vừa có thể cho hiệu quả cao hơn cây sắn.
Tiềm năng đất đai của các huyện miền núi Nghệ An là rất lớn. Để phát huy hiệu quả giúp nhân dân xóa đói giảm nghèo một cách bền vững cần một định hướng tránh tư tưởng bóc lột đất đồng thời đảm bảo các điều kiện trước mắt để phục vụ cho hướng phát triển lâu dài. Cũng như cây sắn, việc phát triển như thế nào phụ thuộc nhiều vào điều kiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong từng địa phương nhưng lâu dài cần gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới để cây sắn phát triển đúng hướng, phù hợp với điều kiện địa phương và đúng quy hoạch.
(Xuân Hướng)

