Xây dựng lò sấy nông sản: Cần một cơ chế phù hợp
Nếu như trước đây, vào thời điểm này đến nhà nào của bà con nông dân xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn cũng sẽ bắt gặp cảnh tượng thóc lúa đầy bồ. Nhưng nay, đại đa số bà nông dân phải đi mua lúa của vùng khác để ăn. Nguyên nhân là do đợt mưa lũ vừa qua khiến hầu hết diện tích lúa của bà con bị ngập lụt, hư hỏng. Gia đình chị Đậu Thị Lương, xóm Đồng Văn, xã Hùng Tiến, Nam Đàn, vụ hè thu năm nay sản xuất 6 sào lúa, thu hoạch được gần 1 tấn lúa. Song do mưa lũ kéo dài hơn 2 tháng, nhà lại không có sân phơi nên toàn bộ sản lượng thóc của chị bị mọc mầm, chuyển sang màu đen, 80% trong số đó phải chuyển làm thức ăn cho trâu bò.
Không chỉ gia đình chị Lương mà hàng trăm hộ dân của xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn đều trong tình cảnh như vậy. Thậm chí rơm rạ, thức ăn cho trâu bò, bà con cũng phải đi mua từ làng khác với giá 2- 3 triệu đồng cho 1 sào rơm. Khó khăn chồng chất khó khăn khiến cuộc sống người nông dân nơi đây đang hết sức điêu đứng.
Theo ông Nguyễn Hữu Nhuần - trưởng phòng nông nghiệp huyện Nam Đàn thì việc lúa hè thu thiệt hại do mưa lụt xảy ra khá thường xuyên, dù địa phương đã áp dụng nhiều giải pháp tiến bộ về giống, thời vụ và phương thức canh tác. Vụ hè thu năm 2011, toàn huyện gieo trồng trên 6.500ha, tổng sản lượng thu hoạch đạt trên 30.000 tấn. Nhưng do ngập lụt trong thời dài dài nên ¼ sản lượng bị hư hỏng. Ngoài ra hàng trăm ha ngô, do mưa kéo dài nên cũng bị nẩy mầm ngay trên bông.
Còn tại huyện Hưng Nguyên, sản lượng lương thực hàng năm của các xã vùng trũng thường xuyên ngập lụt chiếm khoảng 40% tổng sản lượng lương thực toàn huyện. Do đó nhu cầu về các lò sấy nông sản là rất lớn và cấp thiết, đặc biệt ở vụ sản xuất hè thu.
Thực tế, từ năm 2009, Nghệ An đã có những chính sách ưu đãi nhằm nâng cao năng lực xử lý và bảo quản các sản phẩm nông sản sau thu hoạch. Cụ thể, tại quyết định số 19 ngày 4/2/2009 của UBND tỉnh, đã quy định hỗ trợ 40% giá trị lò sấy công suất 300- 500 kg/lần sấy ở miền núi và 20% vùng đồng bằng, hỗ trợ 20% lò có công suất 2.000 kg trở lên/một lần sấy. Tiếp đó, tại Quyết định số 10 ngày 20/1/2010, UBND tỉnh lại tiếp tục có các chính sách hỗ trợ thực hiện chủ trương này. Tuy nhiên, sau hơn 3 năm triển khai trên địa bàn toàn tỉnh vẫn chưa có cái lò sấy nào được xây dựng. Theo ông Nguyễn Hữu Nhuần - trưởng phòng nông nghiệp huyện Nam Đàn, nguyên nhân do tổng sản lượng nông sản toàn huyện khá lớn, nhưng lại nhỏ lẻ, manh mún trong dân, rất khó huy động và quản lý. Số vốn đầu tư xây dựng một hệ thống lò sấy hoàn chỉnh thì rất lớn từ 20 - 40 triệu đồng. Trong khi người nông dân chưa có thói quen sấy nông sản sau thu hoạch, nên hệ thống này chỉ được sử dụng khi có thiên tai, mưa lụt, hiệu suất sử dụng thấp. Tại địa phương, cách đây 10 năm cũng đã được Nhà nước hỗ trợ một máy sấy công suất hàng chục tấn/ ngày tại xã Nam Lộc. Nhưng do công tác quản lý của HTX còn hạn chế, máy móc lâu ngày không sử dụng đã bị hỏng hóc nên không phát huy được hiệu quả.
Trao đổi về vấn đề này, ông Nguyễn Thọ Cảnh - Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT cho biết: Những năm trước, tỉnh rất khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng lò sấy để giảm bớt tổn thất sau thu hoạch, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản, đặc biệt với lúa hè thu, lạc và ngô đông, nhưng việc triển khai rất khó khăn. Nguồn kinh phí cấp hàng năm từ 500 triệu đến 1,5 tỷ đồng nhưng chưa năm nào giải ngân được vì không có địa phương nào có nhu cầu mua máy sấy. Do vậy, bắt đầu từ năm 2012, chính sách hỗ trợ mua máy sấy nông sản sẽ không thực hiện nữa.
Bài toán giải quyết vấn đề bảo quản nông sản sau thu hoạch, theo ông Nguyễn Hữu Nhuần - trưởng phòng nông nghiệp huyện Nam Đàn, là Nhà nước cần có cơ chế chính sách để hỗ trợ bà con làm lò sấy thủ công thì sẽ phù hợp và hiệu quả hơn. Bởi với lò sấy này, bà con có thể tự làm và chi phí đầu tư thấp, chỉ trên dưới 1 triệu đồng, sản lượng có thể lên đến 4-5 tạ/ ngày.
Rõ ràng, nhu cầu phơi, sấy nông sản sau thu hoạch nhất là vào vụ hè thu của bà con nông dân vẫn là vấn đề cấp thiết. Tuy nhiên, bà con nông dân cần hơn một cơ chế chính sách phù hợp sát thực với nhu cầu của bà con và với tình hình kinh tế xã hội từng vùng miền. Làm được như vậy, người nông dân mới không còn phải phấp phỏng, lo âu khi mùa mưa lụt đến trong mỗi mùa sản xuất.
(Thu Vinh)
