Điều trị viêm amyđan ở trẻ em - những điều cần biết
Amyđan là một hệ thống tổ chức limphô nằm trong họng, có vai trò trong hệ thống miễn dịch của cơ thể để chống lại bệnh tật trong những năm đầu đời. Tuy nhiên, khi trẻ lớn dần, tổ chức này rất hay bị viêm hoặc quá phát gây hội chứng amyđan quá to làm trẻ hô hấp khó khăn, thậm chí có thể gây hội chứng ngừng thở khi ngủ. Viêm amyđan là bệnh hay gặp ở trẻ em ở độ tuổi đi học. Amyđan được coi là ổ viêm, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con trẻ, nhất là gây ra các bệnh về đường hô hấp và có tác giả còn coi amyđan là nguyên nhân hay gây ra các rối loạn toàn thân khác nhau cho trẻ em như biếng ăn, chậm phát triển trí tuệ, đái dầm... Vì vậy, trong đa số trường hợp khi bị viêm amyđan nhiều lần, người ta khuyên nên phẫu thuật cắt bỏ tổ chức này.
Cần nhớ rằng amyđan là tên gọi chung cho một số tổ chức nằm ở vị trí ngã ba giữa đường thở và đường ăn ở phía cuối vòm họng. Loại amyđan thường hay gây viêm là amyđan khẩu cái. Amyđan khẩu cái là nơi tích tụ tổ chức limphô lớn nhất nằm ở hai mặt bên của họng và có thể nhìn thấy khi há to miệng. Một hệ thống amyđan thứ hai được gọi là amyđan lưỡi nằm ở phía trong cùng (đáy) của lưỡi. Hệ thống amyđan thứ ba là amyđan họng, khi vị viêm thường gọi là viêm V.A (viết tắt của chữ tiếng Pháp Végétation adénoide). V.A là tổ chức limphô, hình sù sì như quả dâu, nằm ở phía thành sau, trên cao nhất của họng. Viêm V.A hay gặp ở trẻ 1 – 5 tuổi và tự tiêu khi trẻ 8 – 12 tuổi. Cùng với amyđan lưỡi, V.A. amyđan vòi, amyđan khẩu cái tạo thành một cái vòng trong vòng họng có tên gọi là vòng Waldeyer có cùng nguồn gốc và cùng chức năng.
Amyđan và V.A nằm ở ngã ba đường ăn và đường thở, là nơi tiếp xúc đầu tiên với các loại vi khuẩn và các chất kháng nguyên có mặt trong thức ăn và không khí khi hít vào, do đó nó rất dễ bị nhiễm nhiều loại vi khuẩn. Khi đứa trẻ mới sinh ra, amyđan có kích thước rất nhỏ. Từ 1 đến 6 tuổi amyđan to dần do kết quả của sự hoạt động miễn dịch. Bình thường luôn tồn tại sự cân bằng giữa hệ vi khuẩn của tổ chức amyđan và sự đáp ứng miễn dịch tại chỗ của chúng. Khi sự cân bằng này bị phá vỡ bởi nhiễm khuẩn hoặc nhiễm virus dẫn đến quá phát tổ chức limphô và ứ đọng những mảnh hoại tử, lúc đó, sẽ dẫn đến viêm amyđan mạn tính và phì đại do tăng số lượng các nang limphô.
Các dấu hiệu về amyđan quá phát có thể nhận biết từ rất sớm do ảnh hưởng đến chức năng thở của trẻ. Nếu thấy trẻ có ngủ ngáy cần cho trẻ đi khám amyđan vì nếu để kéo dài sẽ có nguy cơ bị các cơn ngừng thở khi ngủ. Cần phải đặc biệt chú ý nếu trẻ ngủ ngáy to, thở bằng mồm mãn tính, hay thức giấc trong đêm, mệt mỏi, đái dầm, học lực kém...
Amyđan quá phát cũng gây ảnh hưởng đến quá trình hình thành giọng nói hoặc cách phát âm của trẻ. Nếu trẻ phát âm như giọng mũi hoặc khó khăn khi phát âm cần phải khám amyđan ngay. Amyđan quá to có thể làm trẻ nuốt vướng, khó ăn, ăn uống chậm chạp hàng giờ mới xong bữa cơm. Thậm chí viêm amyđan cũng gây ảnh hưởng đến chức năng nghe của tai dẫn đến bị điếc.
Trẻ bị quá phát amyđan thường có hơi thở hôi, ho về đêm, ho khan kéo dài. Trẻ luôn có cảm giác khó chịu, rát họng hoặc cảm giác vướng mắc như có dị vật ở họng hoặc nhói đau khi nuốt. Trẻ thường tái diễn các đợt viêm nhiễm cấp amyđan nhiều lần trong năm. Khi đó cần đưa trẻ đến các bệnh viện để khám thực thể và làm các xét nghiệm cần thiết. Các thầy thuốc sẽ có chỉ định cần thiết để điều trị hoặc phẫu thuật cắt bỏ amyđan, nạo V.A cho trẻ. Phẫu thuật cắt amyđan phải được tiến hành ở các cơ sở y tế có thẩm quyền chuyên môn và đầy đủ phương tiện cấp cứu vì dễ gây nguy hiểm cho bệnh nhân như sốc thuốc tê, chảy máu, nhiễm trùng... Bệnh nhân cần phải được chăm sóc hậu phẫu tại bệnh viện ít nhất là một ngày. Việc dùng thuốc để chống chảy máu và chống nhiễm trùng cần tuân theo chỉ định của bác sĩ. Bên cạnh đó là chế độ ăn lỏng hợp lý để bảo đảm sức khỏe cho bệnh nhân.
Việc dùng thuốc khi bị viêm amyđan, viêm V.A trong các đợt viêm mũi họng cấp với các triệu chứng như sốt cao, ho, chảy nước mũi nên dùng các thuốc hạ sốt như paracetamol liều lượng theo thể trọng của bệnh nhân. Đồng thời dùng thuốc nhỏ mũi sunfarin hoặc argyrol 1%. Các kháng sinh chống nhiễm khuẩn hay dùng nhóm beta-lactam như penicilin (uống) hoặc amoxicyllin. Chú ý dùng thêm các thuốc nâng cao sức đề kháng và bồi bổ cơ thể như multivitamin hoặc vitamin C.
Theo camnangthuoc.vn