Mới nhất Tin nóng Media Magazine Infographic Tin ảnh

Xơ vữa động mạch và đau cách hồi

09:19, 21/06/2011
Đau cách hồi là hiện tượng đau một nhóm cơ, thường là cơ cẳng chân, hông hoặc mông xuất hiện khi gắng sức, khi đi lại và giảm đi khi nghỉ mà nguyên nhân thường gặp nhất là bệnh động mạch ngoại biên do vữa xơ động mạch. Tắc hẹp trầm trọng có thể dẫn đến phải cắt bỏ chi.

 

Đau cách hồi có gì đặc biệt?

 

Mức độ đau và cảm giác khó chịu cách hồi của mỗi người không giống nhau, người đau ít, người đau nhiều, có người chỉ cảm giác chân mỏi nhiều khi đi một quãng đường ngắn. Người bệnh có thể đau hông, đùi, cẳng chân hoặc bàn chân, đau riêng rẽ hoặc phối hợp tùy thuộc vào vị trí động mạch bị hẹp. Nếu lòng mạch hẹp nhiều và tuần hoàn bàng hệ (mạch máu tham gia vào cấp máu cho phần sau động mạch bị hẹp) ít hoặc không có, người bệnh đau cả khi nghỉ ngơi, chân có thể bị hoại tử, đôi khi phải cắt cụt để bảo toàn tính mạng, nặng hơn nữa người bệnh có thể tử vong.

 

Đau cách hồi bắp chân là vị trí đau hay gặp nhất. Người bệnh cảm thấy đau như bị chuột rút vùng bắp chân khi đi lại và giảm đi khi nghỉ. Đau kiểu chuột rút ở 2/3 trên bắp chân thường do hẹp động mạch đùi nông, ngược lại đau 1/3 dưới thường là do bệnh lý động mạch khoeo.

 

 

Hormon progesteron. Thoát vị đĩa đệm.

 

Đau cách hồi do hẹp động mạch

 

 

chủ bụng: Người bệnh bị hẹp động mạch chủ bụng thường hay phàn nàn đau hông, háng, bắp đùi. Cảm giác đau có thể giống như bị thương. Người bệnh cũng có cảm giác yếu mỏi cơ vùng hông lưng hoặc bắp đùi khi đi lại. Một dấu hiệu thường hay bị bỏ qua là những vết thương ở lưng, đùi thường chậm lành do mạch máu nuôi dưỡng kém.

 

Đau cách hồi bắp đùi: Đau cách hồi ở bắp đùi là do hẹp động mạch đùi chung trong khi đó đau ở phần thấp hơn thường do hẹp động mạch chày hoặc động mạch mác.

 

Động mạch phía sau chỗ hẹp có hiện tượng đập yếu khi bắt mạch. Chân lạnh, da láng bóng, rụng lông và móng chân đổi màu. Phía dưới đoạn động mạch bị hẹp, huyết áp thấp hoặc có thể không đo được. Siêu âm mạch máu giúp xác định vị trí tổn thương và lượng giá mức độ nặng của bệnh. Cộng hưởng từ hạt nhân hay chụp cắt lớp đa dãy là những xét nghiệm có giá trị giúp chẩn đoán xác định, đánh giá mức độ nặng và định hướng điều trị.

 

Làm gì khi bị đau cách hồi?

 

Kiểm soát các yếu tố nguy cơ: Giảm cholesterol máu làm giảm tiến triển bệnh động mạch ngoại biên và giảm triệu chứng đau cách hồi. LDLcholesterol nên điều chỉnh xuống dưới 100mg/dL (2,6mmol/L). Các biện pháp giảm lipid máu là thay đổi lối sống (ăn uống và luyện tập) kết hợp với dùng thuốc hạ lipid máu khi có chỉ định.

 

Ngừng hút thuốc lá, kiểm soát đường huyết, huyết áp được áp dụng cho mọi bệnh nhân đau cách hồi. Kiểm soát đường huyết và huyết áp còn làm giảm nguy cơ và mức độ nặng của bệnh mạch vành.

 

 Tập thể dục đúng cách giúp đẩy lùi bệnh tật.

 

Tập thể dục phục hồi chức năng giúp giảm triệu chứng đau cách hồi. Người bệnh chọn cho mình địa điểm chạy bộ trong công viên hoặc trên thảm chạy 45 - 60 phút 3 lần/tuần, kéo dài ít nhất 3 tháng. Nên có sự giám sát của nhân viên y tế ở mỗi giai đoạn luyện tập. Mức độ tập luyện căn cứ trên triệu chứng đau cách hồi hoặc một số dấu hiệu như nhịp tim, cơn đau ngực xuất hiện khi gắng sức.

 

Điều trị bằng các thuốc chống lại sự tắc mạch. Thuốc có thể chỉ cải thiện một phần nhỏ triệu chứng nhưng thuốc có khả năng làm giảm số trường hợp đau cách hồi phải điều trị ngoại khoa, giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim, đột qụy và tử vong do các nguyên nhân tim mạch.

 

Can thiệp tái thông mạch qua da: Thường áp dụng trước khi chỉ định phẫu thuật do tái thông mạch qua da ít xâm nhập hơn và ít nguy cơ hơn. (can thiệp qua da với đường vào là vết chọc nhỏ ngoài da, đưa một dây dẫn có bóng vào chỗ động mạch bị hẹp và bóng nong được đưa đến chỗ hẹp của động mạch. Bóng được bơm lên và làm rộng lòng mạch, giúp dòng máu đi qua được dễ dàng hơn). Một số bệnh nhân được đặt giá đỡ (stent) trong lòng mạch, ngăn không cho lòng mạch bị hẹp trở lại sau khi rút bóng. Can thiệp qua da hiện nay được chỉ định khá rộng rãi và là một phương pháp lựa chọn đối với những bệnh nhân sức khỏe yếu không chịu đựng được phẫu thuật.

 

Phẫu thuật: Phẫu thuật tái thông mạch dùng đoạn mạch của cơ thể (tĩnh mạch hoặc động mạch) để nối qua chỗ hẹp, giúp dòng máu chảy qua. Chỉ định tốt nhất cho những bệnh nhân sức khỏe tốt, dưới 70 tuổi, không bị tiểu đường và đoạn sau của động mạch bị hẹp lưu thông tốt. Tuy vậy nhiều bệnh nhân trên 70 tuổi và mắc bệnh tiểu đường đã được phẫu thuật thành công do hiện nay chúng ta có trang thiết bị hiện đại và ngành gây mê hồi sức đã có nhiều bước tiến quan trọng. Sau phẫu thuật, bệnh nhân thường được dùng các thuốc chống đông (warfarin) hoặc chống kết tập tiểu cầu (aspirin) để đề phòng tắc cầu nối động mạch.
 
(Theo SK&ĐS)