Nghệ An khó khăn trong công tác dân số vùng giáo
Nghệ An hiện có hơn 46.900 hộ với gần 270.000 khẩu theo đạo Thiên chúa giáo, chiếm 9% dân số toàn tỉnh, có 14 huyện, thành thị với 147 xã, phường có giáo dân, trong đó, các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc và TP Vinh có số lượng giáo dân đông nhất. Toàn tỉnh hiện có 83 xứ đạo, 348 nhà thờ, trong đó có 83 nhà thờ xứ và 265 nhà thờ họ với 2 giám mục và 97 linh mục. Xác định được những khó khăn, thách thức trong công tác dân số ở các xã có đồng bào theo đạo, các cấp ủy Đảng, chính quyền ở các cơ sở vùng giáo đã tổ chức tốt việc quán triệt, phổ biến, tuyên truyền các nghị quyết, chỉ thị quan trọng của đảng đối với công tác dân số trong cán bộ, đảng viên. Từ đó, đa số cán bộ, đảng viên đã gương mẫu thực hiện KHHGDD và tích cực vận động người thân, nhân dân cùng thực hiện. Bên cạnh đó, chính sách DS- KHHGĐ đã được các chức sắc tôn giáo quan tâm là điều kiện để người dân công giáo tích cực thực hiện một cách tự giác, nghiêm túc. Có linh mục đã lồng vào trong các bài giảng và các bài giáo lý hôn nhân để khuyên răn giáo dân “sinh con có trách nhiệm” và “điều hòa sinh sản”. Nhờ vậy, phần lớn giáo dân đã nắm bắt được những nội dung cơ bản chính sách, pháp luật DS-KHHGĐ và tự nguyện đăng ký cam kết thực hiện. Cùng với đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách và cộng tác viên dân số có nhiều nỗ lực, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền triển khai chương trình mục tiêu dân số tại vùng giáo có hiệu quả. Kết quả, tỷ lệ chấp nhận các biện pháp tránh thai tại vùng giáo đã tăng lên, tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm đáng kể.
Mặc dù đã có những khởi sắc, song công tác vùng giáo vẫn còn gặp không ít tồn tại, thách thức. Trong đó, nổi lên vấn đề nhận thức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý về thực hiện quy mô gia đình ít con còn chuyển biến chậm. Một số cán bộ, đảng viên vẫn còn ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam, khinh nữ, những ràng buộc bởi quan niệm lạc hậu trong cộng đồng. Đáng nói là, các tập quán, tín ngưỡng tôn giáo về sinh nhiều con, sinh con trai vẫn còn tồn tại phổ biến trong giáo dân; Các quy định của giáo hội chỉ cho giáo dân thực hiện biện pháp KHHGĐ bằng phương pháp tự nhiên, vì vậy hiệu quả tránh thai đạt thấp. Một trong những trở ngại của công tác dân số vùng giáo là do trình độ nhận thức của người dân công giáo ở nông thôn còn nhiều hạn chế. Một số giáo dân vẫn không hiểu hoặc không quan tâm tới công tác dân số và có khi còn bày tỏ thái độ không hợp tác với cán bộ truyền thông, vận động. Họ thường chỉ đặt niềm tin vào Chúa. Mọi hạnh phúc của giáo dân là do Chúa ban, Chúa định, KHHGĐ là phạm đạo, phạm tội. Do đó, việc tuyên truyền vận động các đối tượng này thực hiện KHHGĐ gặp rất nhiều khó khăn.
Công tác dân số vùng giáo chưa đạt kết quả như mong muốn còn bởi đội ngũ cán bộ chuyên trách và cộng tác viên dân số ở vùng giáo vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực chuyên môn. Nhất là kỹ năng, kiến thức truyền thông vận động thay đổi hành vi DS - KHHGĐ. Một nguyên nhân nữa đó là do đa số các xã vùng giáo đều nằm trong các khu vực có nền kinh tế kém phát triển, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Khả năng đầu tư ngân sách địa phương và vận động các nguồn lực trong nhân dân cho các hoạt động DS - KHHGĐ hầu như rất thấp. Từ những nguyên nhân đó, tỷ lệ người sử dụng các biện pháp tránh thai ở vùng giáo mới chỉ đạt 60%, trong đó biện pháp tránh thai hiện đại chỉ đạt dưới 50%. Tỷ lệ phụ nữ mắc các bệnh viêm nhiễm phụ khoa cao trên 75%, số người sinh con thứ 3 trở lên giảm chậm và còn quá cao so với mức bình quân chung của tỉnh 1,5-2 lần.
Để thời gian tới nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác dân số vùng giáo, cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền cơ sở, tăng cường lãnh đạo việc xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế, tạo cho nhân dân có cuộc sống no đủ, dân trí được nâng cao, được tiếp cận với nhiều thông tin. Bên cạnh đó, phải đặc biệt coi trọng công tác vận động làm chuyển biến nhận thức của các giám mục, linh mục và các chức việc ban hành giáo. Đồng thời, làm rõ trách nhiệm của họ cùng chính quyền cơ sở giúp cho giáo dân thực hiện biện pháp tránh thai KHHGĐ mà không trái với giáo luật, giáo lý hôn nhân công giáo đã nêu: Vợ chồng được hạn chế sinh sản khi có lý do chính đáng. Giáo hội chỉ có thể nêu ra nguyên tắc, hoàn toàn không nên có thái độ hay biện pháp ép buộc mà trái lại để cho các cặp vợ chồng tự lựa chọn và tự quyết định theo hiểu biết và nhất là theo lương tâm của họ. Giải pháp quan trọng nữa đó là để hoạt động truyền thông ở vùng giáo có hiệu quả thì người cộng tác viên dân số cần phải kiên trì và ứng dụng cách tuyên truyền “mưa lâu thấm đất”, truyền thông rỉ tai như khi làm đồng, đi chợ để phân tích lợi ích sinh con. Người công giáo có đức tin rất lớn, vì vậy, công tác truyền thông, giáo dục các chủ trương, chính sách DS - KHHGĐ cần phải kết hợp chặt chẽ với các linh mục, chức sắc, ban hành giáo và các bậc cao niên.
Hy vọng, với việc triển khai thực hiện các giải pháp nói trên, Nghệ An sẽ tạo được bước chuyển mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị cơ sở ở vùng giáo. Góp phần đưa chất lượng dân số, đời sống vật chất và tinh thần của người dân công giáo được nâng lên ngang với các vùng nông thôn trong toàn tỉnh.
(Hiến Chương)
