12 hộ dân sống chung với… nước của Đập Chăm Bảy
Công trình hồ chứa nước Chăm Bảy được đầu tư theo Quyết định 5510 của Ủy ban nhân dân tỉnh với tổng số vốn được phê duyệt ban đầu 9 tỷ đồng và giao cho UBND huyện Quế Phong làm chủ đầu tư.
Hồ Chăm Bảy có dung tích chứa gần 560 ngàn mét khối, phục vụ sản xuất cho một số cánh đồng Ná Cộn của xã Tiền Phong nằm phía dưới hạ lưu chân đập.
Công trình được khởi công vào ngày 19 tháng 5 năm 2011, đến cuối năm 2012 cơ bản hoàn thành và đưa vào tích nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Tuy nhiên, vẫn còn đến 12 hộ dân với 60 nhân khẩu vấn sinh sống ngay trong vùng lòng hồ, dưới cao trình của mực nước dâng.
![]() |
![]() |
| Những căn nhà tạm bợ vẫn tồn tại trong vùng lòng đập Khe Bảy |
Với chiều cao của bờ chắn tràn lên đến 4,09m nên chỉ cần một đợt mưa thì tất nhà cửa, vườn tược của bà con sẽ chìm sâu dưới đáy hồ. Và cũng chỉ cần một trận mưa vừa là nước từ 2 con khe Huồi Phái và Mo Nừng đã đổ dồn, tích đầy lòng đập Khe Bảy. Vì vậy, việc ăn ở, đi lại của người dân ở dây bị xáo trộn hoàn toàn. Nhiều cơ quan thấy, nhiều người có trách nhiệm của huyện Quế Phong biết, nhưng cũng đành để lực bất tòng tâm, bởi nguyên nhân thiếu kinh phí!
Tại sao khi khảo sát, thiết kế và được phê duyệt, công trình hồ chứa nước Chăm Bảy có tổng vốn 9 tỉ đồng, trong đó tiền bồi thường để di dời dân chỉ có 500 triệu đồng, đến khi thi công đã tăng lên 15 tỉ và số tiền cần để di dời dân ra khỏi lòng hồ cũng tăng lên 2,5 tỉ, có nghĩa gấp 5 lần so với dự toán ban đầu? Phải chăng, để được phê duyệt dự án, giá trị công trình hồ chứa nước Chăm Bảy ở bản Mường Hin, xã Tiền Phong đã được thiết kế và cố tình đưa vào dự toán thấp hơn giá trị thực tế rất nhiều. Để rồi, khi tiến hành thi công sẽ bổ sung thêm các hạng mục và như vậy số tiền chênh lệch do phát sinh từ 9 tỉ tăng lên 15 tỉ trong vòng 1 năm là lẽ đương nhiên.
Chẳng lẽ, vì việc đẩy nhanh tiến độ công trình, huyện Quế Phong lại bỏ quên sự an toàn tính mạng, tài sản của người dân. Hơn nữa, mục đích xây dựng hồ chứa nước Chăm Bảy là tạo điều kiện thuận lợi cho bà con có đủ nước để sản xuất, từ đó ổn định cuộc sống gia đình một cách bền vững. Song cái lợi từ công trình này chưa thấy đâu, bất cập làm ảnh hưởng đến đời sống của người dân là đã thấy rõ. Hơn nữa, không di dân khỏi lòng hồ cũng đồng nghĩa với việc không thể tích nước phục vụ sản xuất.
Và như vậy, giá trị đồng tiền vốn đầu tư của nhà nước, cũng như hiệu quả và mục đích sử dụng công trình cứ vẫn chảy theo dòng nước.
(Nguyễn Nam)


