Rà soát các cơ chế, chính sách dân tộc để đồng bào chủ động thoát nghèo
Đó là ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Thông báo 286/TB-VPCP.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban Dân tộc, các Bộ, ngành cần xác định rõ đầu mối chủ trì trong xây dựng, sửa đổi và triển khai thực hiện, tránh chồng chéo, trùng lắp, nhiều đầu mối quản lý; phân định rõ chính sách hỗ trợ phát triển và chính sách an sinh xã hội; tăng cường phân cấp cho địa phương.
Cần quan tâm trước hết đến chính sách giải quyết đất sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt, đào tạo nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động. Ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa: trồng cây công nghiệp, chăn nuôi gia cầm, gia súc và đại gia súc, chăm sóc, bảo vệ rừng; cần xây dựng chính sách phù hợp từng vùng, với mức hỗ trợ hợp lý về giống cây, con, chi phí chuồng trại và các loại vật tư khác.
Ủy ban Dân tộc và các Bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, thống nhất đề xuất quan điểm, phương hướng, mục tiêu xây dựng mới các chương trình, cơ chế, chính sách dân tộc, phù hợp tình hình vùng dân tộc, miền núi trong giai đoạn mới và đạt hiệu quả cao nhất. Xây dựng cơ chế điều phối, phối hợp giữa các Bộ, ngành trong việc xây dựng chính sách dân tộc, phân bổ nguồn lực và tổ chức thực hiện.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tính toán, cân đối nguồn lực để bố trí phù hợp trong dự toán ngân sách nhà nước năm 2015 cho những chính sách dân tộc đã được rà soát; đồng thời gắn việc rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách dân tộc và ban hành mới các chương trình, cơ chế, chính sách giai đoạn 2016 - 2020 với bố trí nguồn lực trong kế hoạch trung hạn.
Ủy ban Dân tộc và các Bộ, ngành, địa phương tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và đôn đốc thực hiện các chương trình, chính sách dân tộc.
Theo Báo cáo kết quả rà soát chính sách dân tộc giai đoạn 2006-2014 của Ủy ban Dân tộc, hiện nay có 130 chính sách dân tộc được thể hiện qua 177 văn bản tại 37 Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ và 140 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó, Ủy ban dân tộc quản lý 9 chính sách và các bộ, ngành quản lý 121 chính sách. Ngoài ra, các địa phương đã chủ động thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước bằng việc ban hành các chủ trương, chính sách riêng phù hợp với địa bàn. Nguồn lực được bố trí thực hiện các chính sách vùng dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2012 là 150.000 tỷ đồng.
Chính sách dân tộc hiện nay là khá đầy đủ, toàn diện trên các lĩnh vực và phủ kín các địa bàn dân tộc và miền núi. Cơ chế, chính sách đã từng bước thay đổi về quan điểm, tư duy, phân cấp cho địa phương trên cơ sở công khai, minh bạch trong công tác xây dựng và lập kế hoạch, từ hỗ trợ trực tiếp cho hộ chuyển dần sang hỗ trợ cho cộng đồng, nhóm hộ, từ cho không chuyển sang cho vay.
Bộ mặt nông thôn vùng dân tộc và miền núi được thay đổi rõ nét, nhất là hạ tầng kinh tế-xã hội; đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào được cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc và miền núi giảm nhanh 3-4%/năm; lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa có bước phát triển tích cực; khối đại đoàn kết dân tộc được tăng cường…
Bên cạnh những kết quả đạt được, vùng dân tộc và miền núi vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế: Đây vẫn còn là vùng khó khăn nhất, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, giảm nghèo chưa bền vững; cơ sở hạ tầng còn yếu kém; chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi thấp.
(Nguồn: Chinhphu.vn)
