Tồn kho hàng trăm tấn
Tại huyện Thanh Chương - một trong những thủ phủ chè của Nghệ An, có 4.500ha với sản lượng chè tươi khoảng 60.000 tấn/năm, cho sản lượng chè khô gần 12.000 tấn/năm. Trên 90% sản lượng chè ở đây là xuất khẩu, mỗi năm tổng giá trị sản phẩm khoảng 432 tỷ đồng. Hơn nửa năm nay, những doanh nghiệp tham gia xuất khẩu chè trực tiếp đang lao đao do dịch Covid-19 khiến giá chè xuống thấp, tiêu thụ chậm… giá xuất khẩu lại giảm khiến giá thu mua chè nguyên liệu cũng rớt theo.
Nếu như thời điểm này năm 2020, chè tươi ở mức giá từ 4.500 - 5.000 đồng/kg, thì năm nay chỉ còn 2.500 - 3.5000 đồng/kg. Với giá thu mua như vậy, người nông dân chắc chắn chịu lỗ.
Sự suy giảm của xuất khẩu chè Nghệ An bắt nguồn từ sự phụ thuộc quá lớn vào một thị trường. Hầu hết sản lượng chè đều xuất khẩu vào một số thị trường được xem là truyền thống như, Afghanistan, Pakistan, Ả rập và Iran. Khi phía đối tác bất ổn về chính trị, tình hình dịch bệnh phức tạp, chi phí vận tải “phi mã”, kéo theo thanh khoản hợp đồng gặp khó khăn.
Dù gặp khó khăn về xuất khẩu do ảnh hưởng của dịch Covid-19 song các xưởng chè vẫn tìm cách xoay xở để tiêu thụ hết sản lượng chè búp tươi cho người dân |
Tại xưởng chế biến chè Truyền Thống - xóm Trường Sơn, Thanh Mai (huyện Thanh Chương) những ngày này tấp nập người mang chè tới bán. Được doanh nghiệp (DN) tạo điều kiện thu mua dù trong dịch bệnh, nên bà con rất hăng hái thu hoạch.
Anh Lê Văn Thống - Giám đốc Công ty Chè Thống Nhất - cho biết, hiện trong kho của xưởng đã không còn chỗ chứa, chè xuất không được thậm chí đang tồn kho hơn 200 tấn, nhưng DN vẫn đang cố gắng khắc phục để thu mua chè búp tươi cho bà con.
Là một DN tham gia xuất khẩu trực tiếp - anh Thống cho biết: “Chè của công ty hiện 90% xuất khẩu, trong đó Afghanistan chiếm 50%, Ả rập 30% và Iran 10%, còn lại 10% là tiêu dùng trong nước. Từ khoảng tháng 4 trở lại đây, việc xuất khẩu chè qua các thị trường truyền thống gần như “đóng băng”.
Để duy trì chuỗi cung ứng, tiêu thụ, DN đã phải chủ động tìm bạn hàng mới. Anh Thống cho rằng, "Không thể mãi “bỏ trứng vào một giỏ”, mà nhờ vào các đầu mối quen biết, vài tháng qua công ty bắt đầu tìm cách xuất qua các nước mới như Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia… bằng đường bộ giá có rẻ hơn nhưng vẫn phải chấp nhận lấy ngắn nuôi dài. Từ lượng tồn kho trên 400 tấn đến nay trong kho đã giảm đi được gần 50%...", - anh Thống cho biết thêm.
Hay tại xưởng chế biến chè Đường Thích, Giám đốc HTX chè Thanh Mai - ông Nguyễn Văn Đường - cho biết: “Hiện xưởng chè của ông đang cũng tồn đến gần 200 tấn. Để gỡ khó trước mắt, nhiều xưởng chè chấp nhận bán “hòa vốn” hoặc lãi ít cho các công ty, doanh nghiệp lớn trong nước để thu hồi vốn, có tiền chi trả cho bà con. Một số xưởng thì cùng liên kết lại và chia sẻ thị trường cùng nhau, cùng chung nhau xuất khẩu các container chè chất lượng, đồng thời, tìm kiếm đối tác mới, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước như Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc…
Nhiều DN tham gia xuất khẩu trực tiếp cho rằng, trở ngại lớn đối với chè Nghệ An và nhiều địa phương trong cả nước khi tham gia xuất khẩu đó là hàng rào kỹ thuật. Tuy nhiên, khi đã gia nhập “sân chơi” lớn thì phải chấp nhận nó như quy luật của “cuộc chơi”. Bởi mỗi nước sẽ dựng lên hàng rào kỹ thuật riêng của mình, và nhiệm vụ của các bên tham gia là phải làm thế nào bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các bên. Việc xuất khẩu chè tại huyện Thanh Chương và một số địa phương khác trong thời gian vừa qua là minh chứng điển hình cho việc chúng ta “bỏ hết trứng vào một giỏ”, nên đến khi có biến động là có thể bị “vỡ trận”.
Xuất khẩu chè cần đi theo hướng VietGAP
Cây chè đang là cây xóa đói, giảm nghèo, là cây trồng chủ lực của hàng chục ngàn hộ dân ở các huyện miền núi. Ngành sản xuất và chế biến chè tạo việc làm cho hàng nghìn lao động địa phương. Tại Nghệ An, nhiều vùng chè cho năng suất cao và chất lượng tốt, nổi tiếng trong nước như Thanh Chương, Anh Sơn, Con Cuông…
Thời gian gần đây, xuất khẩu chè đang có dấu hiệu sụt giảm. Vì vậy, để ổn định và giữ vững thị trường, cần đưa các vùng nguyên liệu trồng chè vào khuôn khổ làm nông nghiệp sạch (VietGAP).
Theo như các chủ xưởng chè ở Thanh Chương chia sẻ, về lâu dài, để nâng cao giá trị cây chè, nâng thu nhập cho người dân thì cần thiết phải thay đổi tư duy sản xuất. Đó là hình thành các vùng trồng chè sạch, theo chuẩn VietGAP, tạo ra vùng nguyên liệu an toàn để nâng cao chất lượng sản phẩm chè xanh, từ đó chế biến chè khô chất lượng, sạch, đáp ứng các tiêu chí khắt khe từ các thị trường lâu nay được xem là khó tính khác như Mỹ, EU, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc... đồng thời, chế biến sâu thành nhiều sản phẩm khác từ chè xanh như: trà túi lọc, bột matcha, trà sữa hòa tan, trà thảo mộc…
Sản phẩm chè Nghệ An đang dần khẳng định được thương hiệu và có vị trí vững chắc trong ngành chè cả nước cũng như chinh phục được một số thị trường trên thế giới |
Về hướng phát triển lâu dài cho các DN xuất khẩu chè - trao đổi với PV báo Công Thương, ông Trình Văn Nhã - Chủ tịch UBND huyện Thanh Chương - cho hay, năm nay ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 nên thị trường xuất khẩu gặp vô cùng khó khăn. Lượng chè ứ đọng trong dân còn rất nhiều, khiến cả người dân và DN đều không có lãi, ở một số thời điểm còn lỗ.
"Thời gian tới, huyện sẽ hướng tới liên kết trong sản xuất và tiêu thụ chè, quan tâm đặc biệt tới quy trình sản xuất chè an toàn, có chứng nhận được thị trường thế giới công nhận. Huyện sẽ tích cực kết nối giúp đỡ các DN, cơ sở chế biến chè, nhất là các cơ sở xuất khẩu trực tiếp sang thị trường các nước, để làm sao đẩy nhanh xuất khẩu, thu gom mua chè, đảm bảo cuộc sống ổn định cho bà con…”, ông Trình Văn Nhã nhấn mạnh.
Cây chè bao năm nay cùng chung “số phận” với phần lớn nông sản Việt, hiện đang đứng trong tốp đầu về sản lượng xuất khẩu, nhưng trị giá kim ngạch lại thấp hơn nhiều so với các nước xuất khẩu khác. Quy hoạch lại vùng nguyên liệu, sản xuất và chế biến đến xuất khẩu một cách đồng bộ là điều cần làm sớm để tránh nguy cơ “vỡ trận” của mặt hàng vốn là thế mạnh của địa phương này.
Hiện, diện tích trồng chè trên địa bàn tỉnh Nghệ An khoảng hơn 12.000ha, năng suất đạt 130 tấn/ha, sản lượng chè búp tươi hàng năm đạt 156.000 tấn (tương đương 31.200 tấn búp khô), trong đó sản lượng xuất khẩu khoảng 90%. Tuy nhiên, giá chè xuất khẩu chỉ bằng 50 - 60% giá bình quân thế giới, nhưng đến nay cũng không thể xuất khẩu, khiến cho đời sống của hàng nghìn nông dân trồng chè gặp khó.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin