Đồng chí Nguyễn Duy Trinh - Tấm gương đạo đức cách mạng cao đẹp, trong sáng
Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học “Đồng chí Nguyễn Duy Trinh – Nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam” được tổ chức sáng nay (15/7) tại Nghệ An, GS,TS Nguyễn Xuân Thắng – Bí thư Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương đã nhấn mạnh đây là một hoạt động thiết thực kỷ niệm 110 năm ngày sinh của đồng chí (15/7/1910 – 15/7/2020), nhằm ôn lại cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú,với những cống hiến to lớncho Đảng và cách mạng Việt Nam. Đồng thời, là dịp để chúng ta bày tỏ sự tri ân sâu sắc đối với đồng chí Nguyễn Duy Trinh - nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu, tài năng của Đảng và dân tộc.
GS,TS Nguyễn Xuân Thắng – Bí thư Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương phát biểu đề dẫn tại Hội thảo. |
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh (tên khai sinh là Nguyễn Đình Biền), sinh ngày 15 tháng 7 năm 1910 tại làng Cổ Đan, tổng Đặng Xá, nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Với 75 tuổi đời, gần 60 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí được phân công đảm trách nhiều chức vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước, như: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao..v.v.. Đồng chí là đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.
Trên các cương vị công tác, đồng chí Nguyễn Duy Trinh luôn thể hiện là người cán bộ lãnh đạo tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao; đồng chí là một tấm gương mẫu mựcvề đạo đức của người cộng sản: yêu thương đồng chí, đồng bào,trong sáng, chân thành, khiêm tốn, giản dị. Với những công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng, đồng chí vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân, huy chương cao quý khác.
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh – Người chiến sĩ cộng sản kiên trung
Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê văn hiến và cách mạng, tận mắt chứng kiến nỗi khổ nhục của người dân mất nước, ngay từ khi còn nhỏ, Nguyễn Duy Trinh đã mang trong mình tinh thần yêu nước và sớm giác ngộ cách mạng.
Năm 1927, khi mới 17 tuổi, đồng chí tham gia phong trào yêu nước của thanh niên, học sinh thành phố Vinh,đấu tranh chống áp bức của đế quốc và phong kiến, đòi tự do hoạt động chính trị.Năm 1928, đồng chí Nguyễn Duy Trinh tham gia các hoạt động do hội Hưng Namtổ chức và được kết nạp vào Hội (Hội Hưng Nam sau đổi tên thành Tân Việt cách mạng Đảng - một trong 3 tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam ).Sau đó, đồng chí được tổ chức điều vào Sài Gòn hoạt động trong phong trào công nhân.Cuối năm 1928, xảy ra vụ án đường Bácbie, đồng chí Nguyễn Duy Trinh và nhiều cán bộ lãnh đạo của Tân Việt bị địch bắt. Mặc dù vẫn ở tuổi vị thành niên (chưa tròn 18 tuổi), đồng chí vẫn bị tòa án thực dân Pháp ở Sài Gòn kết án 18 tháng tù, sau đó bị trục xuất về nguyên quán.
Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng chí Nguyễn Duy Trinh trở thành đảng viên lớp đầu tiên của Đảng.Trong cao trào cách mạng Xôviết Nghệ-Tĩnh (1930-1931), dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cương vị Bí thư Huyện ủy Nghi Lộc, đồng chí đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh quyết liệt chống chính quyền phong kiến, thực dân.Trước sự đàn áp, khủng bố ác liệt của kẻ thù, cuối năm 1931, đồng chí bị địch bắt; đầu năm 1932, đồng chí bị tòa án thực dân kết án 13 năm khổ sai và đưa đi nhà đày Buôn Ma Thuột.
Toàn cảnh hội thảo. |
Năm 1935, cùng với nhiều tù chính trị, đồng chí Nguyễn Duy Trinh bị đày ra nhà tù Côn Đảo,được coi là “địa ngục trần gian”, nơiđày ải những người cách mạng. Trong thời gian đồng chí Nguyễn Duy Trinhbị giam cầm ở Côn Đảo, đồng chí tham gia sinh hoạt và được cử làm Bí thư “Chi bộ đặc biệt” của nhà tù Côn Đảo. Năm 1936, Chính phủ Pháp có “Sắc lệnh ân xá tù chính trị”, nhưng bị chính quyền thực dân, phong kiến coi là “phần tử nguy hiểm”, nên đồng chí Nguyễn Duy Trinh tiếp tục bị giam giữ ở Côn Đảo. Đến năm 1941, mặc dù đã mãn hạn tù, nhưng đồng chí vẫn không được trả tự do, kẻ địch đưa đồng chí về giam giữ tại các nhà ngục ở Kon Tum, cho đến tháng 5/1945 mới được ra tù.
Trải qua gần 14 năm trong lao tù đế quốc, từ Khám lớn (Sài Gòn), nhà lao Vinh, nhà đày Buôn Ma Thuột, nhà tù Côn Đảo đếnnhà ngục Kon Tum.., đồng chí Nguyễn Duy Trinh luôn nêu cao khí tiết kiên trung của người đảng viên cộng sản, đi đầu trong các cuộc đấu tranh chống chế độ lao tù hà khắc; cùng anh em tù chính trị “biến nhà tù đế quốc, thành trường học cộng sản”, tranh thủ học tập, nâng cao trình độ văn hóa và nhận thức lý luận chính trị, động viên anh em tuyệt đối tin tưởng vàosự nghiệp cách mạng của Đảng, thắp sáng niềm tin vào thắng lợi cuối cùng.
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh - Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam
Tháng 5-1945, ngay sau khi ra tù, đồng chí Nguyễn Duy Trinh tham gia vận động khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố Vinh (Nghệ An) và thành phố Huế. Cách mạng tháng 8/1945thắng lợi;Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đồng chí Nguyễn Duy Trinh được cử làm Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy Trung Bộ, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính Trung Bộ, Bí thư Khu ủy Liên khu V kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chính miền Nam Trung Bộ. Trên cương vị của mình, đồng chí đã cùng Xứ ủy lãnh đạo kháng chiến, xây dựng căn cứ địa, vùng tự do, góp phần quan trọng vào thắng lợi của phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Trung Bộ.
Với tài năng và uy tín, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2/1951), đồng chí Nguyễn Duy Trinh được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Cuối năm 1954, đồng chí được phân công làm Chánh Văn phòng Trung ương Đảng. Năm 1955, đồng chí được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng. Năm 1956, đồng chí được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị và được phân công giữ chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng. Năm 1958, đồng chí được phân công làm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Trên các cương vị công tác, đồng chí đã tham mưu cho Đảng, Nhà nước nhiều nội dung quan trọng trong lãnh đạo về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.., giúp Trung ương hoạch định những chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn.
Năm 1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí Nguyễn Duy Trinh được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, sau đó kiêm thêm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước (1963-1964). Trên các cương vị lãnh đạo, đồng chí đã có đóng góp quan trọng vào việc hoạch định đường lối phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, thực hiện, xây dựng nền tảng vật chất, kỹ thuật đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Giữa lúc nhân dân ta nỗ lực thực hiện thắng lợi chỉ tiêu Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), đế quốc Mỹ đã gây ra “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” (8/1964), cho Hải quân và Không quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Tháng 3-1965, Mỹ cho quân đổ bộ vàomiền Nam, thực hiện “chiến lược chiến tranh cục bộ”, nhân dân ta bước vào thời kỳ cách mạng mới với muôn vàn khó khăn, thử thách.Trước tình hình và nhiệm vụ mới, đồng chí Nguyễn Duy Trinh được cử làm Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, (từ năm 1976 là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Trong bối cảnh tình hình quốc tế có những diễn biến bất lợi,các nước xã hội chủ nghĩa nảy sinh sự bất đồng, chia rẽ sâu sắc,với cương vị là người lãnh đạo cao nhất trên mặt trận Ngoại giao, đồng chí Nguyễn Duy Trinh đã chỉ đạo thực hiện một cách sáng tạo, hiệu quảđường lối đối ngoại của Đảng trong đấu tranh ngoại giao và vận động quốc tế, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Quán triệt tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh: Độc lập, tự chủ,linh hoạt, sáng tạo,sử dụngnghệ thuật “thắng từng bước”; “vừa đánh vừa đàm”, phát huy sức mạnh dân tộckết hợp với sức mạnh thời đại...để tấn công kẻ địch.Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh, ngoại giao đã trở thành một trong 3 mặt trận, (quân sự,chính trị, ngoại giao),được sử dụng một cách linh hoạt, nhuần nhuyễn;có sự chỉ đạo chặt chẽ trong phối hợp tấn công giữa mặt trận quân sự,chính trị với đấu tranh ngoại giao;kết thúc thắng lợi bằng việc ký kết Hiệp định Pari (1-1973), buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước, làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng, tạo điều kiện thuận lợi đểquân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa mùa Xuân năm 1975, hoàn thành sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau khi đất nước thống nhất, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Duy Trinh, ngành Ngoại giao đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: đẩy mạnh mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, tranh thủ sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa anh em...Đặc biêt, với nỗ lực cố gắng của ngành ngoại giao, tháng 9-1977, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Liên hợp quốc, đồng chí Nguyễn Duy Trinh thay mặt Nhà nước Việt Nam dự Lễ thượng cờ Việt Nam tại trụ sở Liên hợp quốc - thành phố New York (Hoa Kỳ).
Với những cống hiến to lớn của đồng chí Nguyễn Duy Trinh, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976), đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Năm 1982, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và được cử giữ chức Thường trực Ban Nghiên cứu chiến lược Kinh tế - xã hội của Trung ương Đảng và có những đóng góp quan trọng tham mưu cho Đảng, Nhà nước trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội đất nước những năm trước đổi mới.
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh - Tấm gương đạo đức cách mạng cao đẹp, trong sáng
Là một nhà lãnh đạo trưởng thành từ cơ sở, hoạt động trong thời kỳ dựng Đảng, luôn đối diện với sự truy lùng, đàn áp khốc liệt của kẻ thù, cũng như phần lớn các đồng chí đảng viên tiền bối của Đảng, đồng chí Nguyễn Duy Trinh luôn thể hiện bản lĩnh của người cộng sản kiên cường, tuyệt đối trung thành với lý tưởng, chấp nhận mọi hi sinh, gian khổ và có những đóng góp quan trọng đối với phong trào cách mạng.
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh là người hoạt động cách mạng trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam, đảm đương nhiều trọng trách của Đảng và Nhà nước.Đồng chí luôn chấp hành sự phân công, điều động của Đảng và là người có thể công tác, hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Dù ở cương vị nào, đồng chí cũng làm việc hết mình trên tinh thần tự giác, tận tụy, chủ động, sáng tạo, trách nhiệm cao, luôn chăm lo giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
Trong những năm tháng bị địch bắt, tra tấn, tù đày, đồng chí luôn nêu cao tinh thần kiên định, vững vàng và nêu cao chí khí của người chiến sĩ cộng sản, kiên cường vượt qua mọi gian nguy, thử thách, cùng với các đồng chí mình biến nhà tù đế quốc thành “trường học cách mạng”, luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng của sự nghiệp cách mạng.
Các đại biểu tham dự. |
Với phẩm chất đạo đức sáng trong, phong cách làm việc tận tụy, khiêm tốn, trầm lắng, đồng chí luôn nêu cao tinh thần tập trung dân chủ, tôn trọng, phát huy ý kiến tập thể, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, chu đáo, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Với bề dày tri thức, kinh nghiệm của nhà lãnh đạo; sự chín chắn,vững vàng của người chiến sĩ cách mạng từng trải,đồng chí Nguyễn Duy Trinh xét đoán công việc dựa trên cơ sở khách quan, khoa học,luôn nhạy cảm trước cái mới, trong mọi hoàn cảnh. Giữa nhiều ý kiến khác nhau, đồng chí luôn trân trọng lắng nghe, biết đánh giá, biết lựa chọn, không bị lung lạc bởi những điều “có vẻ hấp dẫn” bề ngoài mà thiếu thực chất, nghiêm túc suy xét để chắt lọc và tiếp thu cái đúng, cái mới tiến bộ và luôn có phần chủ kiến của riêng mình.
Đánh giá về đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Đồng chí Nguyễn Duy Trinh là một nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, người học trò trung thành và gẫn gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tấm gương chiến đấu và phẩm chất cách mạng, đức tính khiêm tốn và tình thương yêu chân chính đối với đồng chí, đồng bào của anh đã để lại cho chúng ta nhiều tình cảm tốt đẹp và sâu sắc”.
Đảng ta khẳng định: “Gần 30 năm trên cương vị là một Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, đồng chí đã đem hết tâm lực và trí tuệ của mình cùng Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta” . Cuộc đời đồng chí là tấm gương sáng của một người cộng sản mẫu mực, một trong những học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh – người con ưu tú của quê hương Nghệ An
Là nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam, đồng chí Nguyễn Duy Trinh là một trong những người con ưu tú và là niềm tự hào của quê hương Nghệ An.
Được sinh ra, lớn lên trên vùng đất giàu truyền thống lịch sử -văn hóa, truyền thống anh dũng, kiên cường chống ngoại xâm, quê hương Nghệ An đã bồi đắp, nuôi dưỡng nên nhiều danh nhân lịch sử - văn hóa của đất nước, tiêu biểu như chí sĩ Phan Bội Châu,Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Lê Hồng Phong...và nhiều vị anh hùng trong lịch sử dân tộc. Đồng chí Nguyễn Duy Trinh được quê hương nuôi dưỡng, giáo dục, hình thành chí khí cách mạng, tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh cho độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời nhà cách mạng, người cộng sản Nguyễn Duy Trinh với những hoạt động cống hiến của mỉnh cũng đã góp phần làm rạng danh quê hương xứ Nghệ.
Các đại biểu xem ảnh trưng bày về cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Nguyễn Duy Trinh. |
Đối với Đảng bộ Nghệ An, ngay từ thời kỳ vận động thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Duy Trinh đã có đóng góp to lớn trong việc xây dựng tổ chức Đảng và phát triển phong trào cách mạng.Trong những năm tháng khó khăn, ác liệt của cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, trên cương vị Bí thư Huyện ủy Nghi Lộc, đồng chí đã lãnh đạo đấu tranh quyết liệt với kẻ thù; thể hiện tinh thần anh dũng, bất khuất, qua đó khơi dậy ý chí quyết tâm đòi độc lập trong các tầng lớp nhân dân, tạo tiền đề cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc giành thắng lợi.Năm 1945, ngay sau khi ra tù, đồng chí Nguyễn Duy Trinh tham gia vận động khởi nghĩa giành chính quyền ở Vinh, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 ở Nghệ An.Sau này, trên bước đường hoạt động cách mạng, dù ở đâu và trên cương vị công tác nào, đồng chí Nguyễn Duy Trinh cũng luôn dành cho quê hương Nghệ An những tình cảm tốt đẹp, nồng hậu nhất. Tháng 8-1963, thay mặt Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Chính phủ dự và chỉ đạo Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An, đồng chí Nguyễn Duy Trinh nhấn mạnh: Chắc rằng toàn Đảng bộ và nhân dân Nghệ An, dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội lần này, sẽ phát huy mọi thuận lợi của địa phương, khắc phục mọi khó khăn, và sẽ giành được những thắng lợi mới để đưa Nghệ An thành một tỉnh khá nhất ở miền Bắc.. như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân Nghệ An luôn tự hào, ra sức học tập tấm gương của đồng chí Nguyễn Duy Trinh và các anh hùng tiên liệt, phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh. Nghệ An từ một tỉnh nghèo, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, nhưng lương thực không đủ ăn, đến nay đã đảm bảo tốt an ninh lương thực, kinh tế tăng trưởng khá nhanh; Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có nhiều đổi mới tích cực, diện mạo từ đô thị dến nông thôn có nhiều đổi mới; Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên; Giáo dục và đào tạo tiếp tục khẳng định được vị trí tốp đầu cả nước. Y tế phát triển đồng đều ở các tuyến. Hoạt động văn hóa, nghệ thuật đáp ứng tốt nhu cầu hưởng thụ của nhân dân.Học tập tấm gương đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh chính trị và nhiệt huyết cách mạng của đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Đảng bộ và nhân dân Nghệ An nguyện nêu cao ý chí cách mạng, tự giác phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đoàn kết, đồng thuận xây dựng quê hương Nghệ An giàu đẹp, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An,hướng tới chào mừng Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
rọn cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, đồng chí Nguyễn Duy Trinh đã đem hết trí tuệ, sức lực phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Những đóng góp quan trọng của đồng chí trên nhiều lĩnh vực công tác của Đảng và Nhà nước, cả về lý luận và chỉ đạo thực tiễn, được Đảng và nhân dân ta ghi nhận, đánh giá cao. Những đóng góp lý luận và bài học kinh nghiệm thực tiễn lãnh đạo của đồng chí, tiếp tục được phát huy trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Đồng chí trở thành tấm gương sáng về ý chí cách mạng, tinh thần vượt khó, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì lý tưởng của Đảng, vì tương lai tươi sáng của đất nước cho các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ học tập và noi theo.